Bạn muốn gửi quà tặng, quà biếu cho người thân tại Nhật Bản?
Bạn muốn gửi quà tặng, quà biếu cho người thân tại Nhật Bản?
Hàng phổ thông đi Nhật là gì: hàng phổ thông là các mặt hàng như: Hồ sơ, chứng từ, Quần áo, giày dép, túi xách, hàng thủ công mỹ nghệ…không thuộc diện hàng fake, hàng giả hàng nhái, Truyện tranh, tạp chí, ốp điện thoại
Cước phí gửi hàng đi Nhật với hàng dễ thông quan, cước phí gửi hàng đi Nhật qua bưu điện
10 – 50 kg (thể tích, trọng lượng)
Từ 50kg trở lên (thể tích, trọng lượng)
205.000/kg (thể tích, trọng lượng)
195.000/kg (thể tích, trọng lượng)
Nhận từ 10kg trở lên, dưới 10kg áp dụng mức giá hàng khó xử lý Hải Quan (phải có người nhận là công ty)
Đối với hàng ngoài danh mục trên, hàng hóa xuất khẩu sang Nhật Bản coi là hàng khó bao gồm:
Quần áo, giày dép, túi xách có thương hiệu (có hóa đơn chứng từ) không phải hàng fake, thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm, thuốc lá, thuốc tây, đồ khô, đồ gia vị, Các loại hạt cây, hạt rau, Hàng công nghệ, điện tử, linh kiện điện tử, hàng cũ, Trang sức, đồ lưu niệm, Điện thoại, laptop, Ipad, MP3…
Quý khách cần phải liên hệ trước với dịch vụ gửi hàng đi Nhật/ chuyển phát nhanh đi Nhật để được tư vấn trước khi gửi hàng/ chuyển phát nhanh tại thời điểm báo giá, Đặc biệt, nếu hàng hóa thuộc mặt hàng thuộc danh mục hàng hóa cấm bay trong vận chuyển hàng không, thì phải chuyển sang đi LCL hoặc các phương thức khác
Cước phí/ chi phí/báo giá gửi hàng đi Nhật với hàng khó đi
1 – 50 kg (thể tích, trọng lượng)
Từ 50kg trở lên (thể tích, trọng lượng)
240.000/kg(thể tích, trọng lượng)
230.000/kg (thể tích, trọng lượng)
Một số công ty chuyển phát nhanh uy tín là đối tác của JapanExpress: Indochinapost, EMSVietNam, AirAsia Cargo, UPS, DHL, TNT, Fedex, chuyển phát nhanh EMS đi Nhật , Airportcargo
Thời gian gửi hàng đi Nhật Bản là 5 – 10 ngày
Đối với hàng hóa nhẹ và cồng kềnh: theo quy định của vận chuyển hàng không quốc tế cần quy đổi ra trọng lượng thể tích. Việc này để xác định được chính sác giá cước, đảm bảo an toàn tình trạng lô hàng, cũng như vị trí chiếm chỗ trong khoang máy bay, cách tính như sau ( DÀI*RỘNG*CAO)/5000
tùy theo đơn hàng và mỗi lô hàng sẽ có các quy định khác nhau. Hãy liên hệ với chuyên viên để được tư vấn
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Các Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập, tập 19. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
Xét nội dung của nó, chủ nghĩa xã hội hiện đại trước hết là kết quả của việc khảo sát một mặt là những đối lập giai cấp đang thống trị trong xã hội hiện đại giữa những người có của và những người không có của, giữa những nhà tư bản và những công nhân làm thuê, và mặt khác là tình trạng vô chính phủ đang chi phối sản xuất. Nhưng xét hình thức lý luận của nó thì chủ nghĩa xã hội hiện đại lúc đầu xuất hiện như một sự phát triển tiếp tục và dường như triệt để hơn những nguyên lý mà các nhà triết học khai sáng vĩ đại Pháp hồi thế kỷ XVIII đã nêu lên. Cũng như bất cứ học thuyết mới nào, chủ nghĩa xã hội trước hết phải xuất phát từ những tư liệu tư tưởng đã tích luỹ từ trước, mặc dù gốc rễ của nó nằm sâu trong những sự kiện kinh tế vật chất.
Những vĩ nhân ở Pháp đã soi sáng đầu óc mọi người để chuẩn bị cho cuộc cách mạng sắp bùng nổ thì chính họ cũng rất cách mạng. Họ không thừa nhận một thứ uy quyền bên ngoài nào cả. Tôn giáo, quan niệm về tự nhiên, xã hội, tổ chức nhà nước, tất cả phải được đem ra phê phán hết sức nghiêm khắc, tất cả đều phải ra trước toà án của lý tính và biện hộ cho sự tồn tại của mình hoặc từ bỏ sự tồn tại của mình. Lý tính của tư duy là thước đo duy nhất để đánh giá mọi tồn tại. Đó là thời đại mà theo Hê-ghen, thế giới đứng bằng đầu [1], trước hết theo ý nghĩa rằng đầu óc của con người và những nguyên lý do đầu óc thông qua tư duy mà phát hiện ra, đòi hỏi phải được dùng làm cơ sở cho mọi hoạt động của con người và cho mọi quan hệ xã hội, và sau đó theo ý nghĩa rộng hơn nữa là cái hiện thực mâu thuẫn với những nguyên lý ấy thì trong thực tế đã bị đảo lộn ngược lên. Tất cả những hình thức của xã hội và của nhà nước được thừa nhận trước kia, tất cả những quan niệm cổ truyền, đều bị tuyên bố là không hợp lý và vứt bỏ như đồ cũ. Từ trước đến giờ, thế giới chỉ toàn bị những thành kiến chi phối, tất cả quá khứ của thế giới chỉ đáng thương và đáng kinh mà thôi. Bây giờ, lần đầu tiên, mặt trời đã mọc, thời đại của lý tính đã tới; từ nay về sau, mê tín và bất công, đặc quyền và áp bức phải nhường chỗ cho chân lý vĩnh cửu, cho chính nghĩa vĩnh cửu, cho bình đẳng sinh ra từ bản thân giới tự nhiên và cho những quyền không thể tách rời của con người.
Ngày nay, chúng ta biết rằng sự thống trị của lý tính ấy chẳng qua chỉ là sự thống trị lý tưởng hoá giai cấp tư sản; rằng chính nghĩa vĩnh cửu đã được thực hiện trong pháp luật tư sản; rằng bình đẳng rút cục lại chỉ là bình đẳng tư sản trước luật pháp; rằng một trong những nhân quyền chủ yếu của con người mà người ta đã tuyên bố, là... sở hữu tư sản. Nhà nước lý tính - khế ước xã hội của Rút-xô [2] - đã thể hiện và chỉ có thể thể hiện trong thực tiễn dưới hình thức nền cộng hoà dân chủ tư sản. Các nhà tư tưởng vĩ đại của thế kỷ XVIII, cũng như tất cả những tiền bối của họ, không thể vượt qua được những khuôn khổ mà thời đại của họ đã quy định cho họ.
Nhưng bên cạnh sự đối lập giữa quý tộc phong kiến với giai cấp tư sản đứng ra làm đại biểu cho toàn xã hội còn lại, còn có sự đối lập chung giữa những kẻ bóc lột và những người bị bóc lột, giữa những kẻ giầu lười biếng và những người nghèo cần cù lao động. Chính tình trạng đó đã khiến cho các đại biểu của giai cấp tư sản có thể tự nhận là đại biểu không phải của một giai cấp riêng biệt nào mà là đại biểu của toàn thể nhân loại đau khổ. Không phải chỉ có thế. Từ lúc mới chào đời, giai cấp tư sản đã mang nặng cái đối lập với chính bản thân nó: nhà tư bản không thể sống còn nếu không có người công nhân làm thuê; và người thợ cả các phường hội thời Trung cổ mà phát triển thành người tư sản cận đại thì người thợ bạn các phường hội và người làm công nhật không ở trong phường hội cũng đồng thời phát triển thành người vô sản. Mặc dầu nói chung và xét toàn bộ thì giai cấp tư sản, trong khi đấu tranh chống quý tộc, cũng có quyền, trong chừng mực nào đó, tự nhận là đại biểu cho các giai cấp lao động thời bấy giờ; nhưng trong mỗi phong trào lớn của giai cấp tư sản, lại xuất hiện những phong trào độc lập của giai cấp vốn là tiền thân ít nhiều phát triển của giai cấp vô sản hiện đại. Tỷ dụ như phong trào của phái tái tẩy lễ và của Tô-mát Muyn-txơ trong thời đại Cải cách tôn giáo và Chiến tranh nông dân ở Đức, phái bình quân [3] trong thời đại Đại cách mạng Anh, Ba-bớp trong thời đại Đại cách mạng Pháp. Đi đôi với những cuộc khởi nghĩa vũ trang cách mạng ấy của một giai cấp chưa trưởng thành, còn có những biểu hiện lý luận tương ứng: trong thế kỷ XVI và XVII có những tác phẩm không tưởng về những chế độ xã hội lý tưởng [4]; trong thế kỷ XVIII có những lý luận có tính chất cộng sản chủ nghĩa rõ rệt (Mo-re-li và Ma-bli). Yêu cầu bình đẳng không còn chỉ hạn chế trong những quyền lợi chính trị, mà đã mở rộng ra đến cả địa vị xã hội của mỗi cá nhân; không những phải xoá bỏ đặc quyền giai cấp mà còn phải xoá bỏ ngay cả những sự khác biệt giai cấp nữa. Hình thức biểu hiện đầu tiên của học thuyết mới ấy là chủ nghĩa cộng sản khắc khổ, rập theo kiểu Xpác-tơ, cấm mọi sự hưởng lạc. Rồi ba nhà không tưởng vĩ đại xuất hiện: Xanh-Xi-mông, ông là người mà ngoài khuynh hướng vô sản ra, còn giữ những ảnh hưởng nào đó của khuynh hướng tư sản; Phu-ri-ê và Ô-oen; Ô-oen sống trong một nước mà sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển nhất, bị ảnh hưởng của những đối lập do phương thức sản xuất ấy sinh ra, nên đã xuất phát trực tiếp từ chủ nghĩa duy vật Pháp mà nêu ra một cách có hệ thống những dự án xoá bỏ những sự khác biệt giai cấp.
Sự giống nhau giữa ba ông là ở chỗ họ không tự coi là đại biểu cho lợi ích của giai cấp vô sản mà lịch sử đã sản sinh ra trong thời kỳ đó. Cũng như những nhà triết học khai sáng, họ muốn lập tức giải phóng ngay toàn nhân loại, chứ không phải trước hết giải phóng một giai cấp nhất định. Cũng như những nhà triết học ấy, họ muốn xây dựng nên vương quốc của lý tính và của chủ nghĩa vĩnh cửu; nhưng vương quốc của họ khác rất xa vương quốc của các nhà triết học khai sáng Pháp. Đối với họ thì thế giới tư sản xây dựng theo những nguyên tắc của các nhà triết học ấy cũng không hợp lý và cũng bất công, cho nên cũng phải vứt vào sọt rác như chế độ phong kiến và mọi chế độ xã hội trước kia. Sở dĩ lý tính chân chính và chính nghĩa chân chính từ trước đến giờ chưa thống trị được thế giới, chỉ là vì chưa ai hiểu được chúng một cách đúng đắn. Cái còn thiếu chỉ là nhân vật thiên tài mà thôi; bây giờ nhân vật ấy đã xuất hiện, đã nhận thức được chân lý. Sở dĩ đến nay thiên tài ấy mới xuất hiện, sở dĩ đến nay chân lý mới được nhận thức đúng đắn thì đó không phải là kết quả tất nhiên của toàn bộ tiến trình phát triển của lịch sử, không phải là sự kiện không thể tránh được mà chỉ là một sự ngẫu nhiên may mắn. Cách đây 500 năm, đáng lẽ nhân vật thiên tài ấy đã có thể xuất hiện một cách có kết quả như thế và nếu như thế thì nhân loại đã có thể tránh được năm thế kỷ nhầm lẫn, đấu tranh và đau khổ.
Chúng ta đã thấy những nhà triết học Pháp thế kỷ XVIII, tức là những người chuẩn bị cho cách mạng, đã nhờ đến lý tính làm kẻ xét xử duy nhất mọi sự vật hiện có. Họ đòi phải dựng nên nhà nước lý tính, xã hội lý tính; đòi phải phá huỷ không thương tiếc tất cả những cái gì trái với lý tính vĩnh cửu. Chúng ta cũng đã thấy rằng lý tính vĩnh cửu ấy thực tế không phải là cái gì khác mà chính là nhận thức lý tưởng hoá của người thị dân trung đẳng lúc ấy đang phát triển thành người tư sản. Nhưng khi cách mạng Pháp đã thực hiện xã hội lý tính ấy, nhà nước lý tính ấy thì người ta có thể thấy rõ rằng dù những chế độ mới là hợp lý hơn các chế độ cũ như thế nào đi nữa nhưng nó cũng hoàn toàn không phải là tuyệt đối hợp với lý tính. Nhà nước lý tính đã phá sản hoàn toàn. Khế ước xã hội của Rút-xô đã được thực hiện trong thời kỳ khủng bố; để thoát khỏi sự khủng bố, giai cấp tư sản, không tin vào năng lực chính trị của chính mình, trước tiên đã cầu cứu sự đồi bại của Viện chấp chính [5], về sau lại nấp dưới trướng của chế độ độc tài Na-pô-lê-ông. Hoà bình vĩnh cửu mà người ta hứa hẹn đã biến thành một cuộc chiến tranh xâm lược không ngừng. Số phận của chế độ xã hội lý tính cũng không đẹp đẽ gì hơn. Sự đối lập giữa những người giàu và những người nghèo đáng lẽ được giải quyết trong đời sống hạnh phúc phổ biến thì lại trở thành sâu sắc hơn do xoá bỏ những đặc quyền phường hội và đặc quyền khác là những đặc quyền đã từng giảm nhẹ sự đối lập ấy, và do xoá bỏ những tổ chức từ thiện của giáo hội là những tổ chức đã từng làm dịu chút ít những đối lập ấy; cái "tự do sở hữu" được thoát khỏi xiềng xích phong kiến, ngày nay đã được thực hiện trong thực tế, thì đối với người tiểu tư sản và tiểu nông, chẳng qua chỉ là tự do bán cái sở hữu nhỏ của họ - cái sở hữu bị đè bẹp bởi sự cạnh tranh mãnh liệt của đại tư bản và chiếm hữu ruộng đất lớn - cho chính những bọn chủ đầu sỏ ấy; do đó, đối với người tiểu tư sản và tiểu nông, "tự do sở hữu" đã biến thành tự do mất sở hữu. Sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp trên cơ sở tư bản chủ nghĩa đã làm cho sự nghèo khổ và khốn cùng của quần chúng lao động trở thành điều kiện sống còn của xã hội. Cái lối trả tiền ngay theo Các-lai-lơ nói, ngày càng trở thành lối liên hệ duy nhất của xã hội ấy. Số tội phạm mỗi năm một tăng. Nếu những tội ác của thời phong kiến trước kia được tiến hành công khai một cách vô sỉ, bây giờ tuy chưa bị tiêu diệt nhưng tạm thời trở thành thứ yếu thì những tội ác của giai cấp tư sản, trước kia được lưu hành bí mật, bây giờ lại càng nảy nở dồi dào. Thương nghiệp ngày càng trở thành sự lừa đảo. Phương châm "bác ái" của cách mạng [6] được thực hiện trong sự bịp bợm và sự kình địch do cạnh tranh sinh ra. Hối lộ thay cho áp bức bằng bạo lực; tiền thay lưỡi gươm để làm đòn bẩy chủ yếu của quyền lực xã hội. Quyền hưởng đêm đầu tiên từ tay lãnh chúa phong kiến được chuyển qua tay anh tư sản chủ công xưởng. Mại dâm tăng lên đến những quy mô chưa từng có. Thậm chí chính hôn nhân, cũng như trước kia vẫn là hình thức mại dâm được pháp luật thừa nhận và là bình phong chính thức cho sự mại dâm, vả lại còn được bổ sung thêm bằng sự thông dâm phổ biến. Tóm lại, so với những lời hứa hẹn hoa mỹ của các nhà triết học Pháp thì những chế độ xã hội, chế độ chính trị do "thắng lợi của lý tính" dựng nên, chỉ là một bức biếm hoạ làm cho người ta thất vọng chua cay. Chỉ còn thiếu những người để nhận ra tình hình thất vọng ấy, và những người ấy đã xuất hiện vào đầu thế kỷ mới. Năm 1802, Xanh-Xi-mông xuất bản "Những bức thư từ Giơ-ne-vơ" của ông; năm 1808, Phu-ri-ê xuất bản tác phẩm thứ nhất của ông, mặc dù cơ sở lý luận của ông đã có từ năm 1799; và ngày 1 tháng Giêng 1800, Rô-bớc Ô-oen làm giám đốc xưởng Niu-La-nác-cơ [7].
Nhưng lúc bấy giờ, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và cùng với nó là sự đối lập giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản còn rất ít phát triển. Đại công nghiệp vừa mới sinh ra ở Anh, và ở Pháp thì chưa có. Nhưng một mặt, chỉ có đại công nghiệp mới phát triển những xung đột đòi hỏi nhất thiết phải có một cuộc cách mạng trong phương thức sản xuất, đòi hỏi nhất thiết phải xoá bỏ tính chất tư bản chủ nghĩa của phương thức sản xuất - không phải chỉ là những xung đột giữa những giai cấp do đại công nghiệp sinh ra, mà là cả những xung đột giữa lực lượng sản xuất và phương thức trao đổi do nó tạo ra nữa; và mặt khác, cũng chỉ có đại công nghiệp ấy mới thông qua những sự phát triển lớn lao của lực lượng sản xuất mà cung cấp được những phương tiện để giải quyết những xung đột do nó tạo ra. Cho nên, nếu đầu thế kỷ XIX, những xung đột sinh ra từ trong xã hội hiện đại chỉ mới bắt đầu phát sinh thì dĩ nhiên là những phương tiện để giải quyết những xung đột ấy lại càng ít phát triển hơn nữa. Nếu quần chúng tay trắng ở Pa-ri tạm giành được quyền thống trị một thời gian ngắn trong thời kỳ khủng bố và do đó có thể đưa cuộc cách mạng tư sản chống lại bản thân giai cấp tư sản, đến thắng lợi, thì bằng việc làm của họ, họ chỉ chứng minh rằng trong điều kiện lúc bấy giờ, sự thống trị của họ không thể tồn tại được lâu dài. Giai cấp vô sản chỉ vừa mới tách ra khỏi khối quần chúng tay trắng nói chung để trở thành mầm mống của một giai cấp đang phát sinh, hoàn toàn chưa thể có một hành động chính trị độc lập được, thì chỉ biểu hiện ra là một tầng lớp đau khổ và bị áp bức, một tầng lớp vì không có khả năng tự lực cánh sinh nên nhiều lắm chỉ có thể nhờ vào sự giúp đỡ bên ngoài - từ trên xuống.
Hoàn cảnh lịch sử ấy cũng đã quyết định quan điểm của những người sáng tạo ra chủ nghĩa xã hội. Tương ứng với một nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chưa thành thục, với những quan hệ giai cấp chưa thành thục thì có một lý luận chưa thành thục. Biện pháp giải quyết những vấn đề xã hội còn nằm kín trong quan hệ kinh tế chưa phát triển, nên phải được sản sinh ra từ đầu óc con người. Chế độ xã hội chỉ biểu hiện toàn những khuyết điểm; tẩy trừ những khuyết điểm ấy là nhiệm vụ của lý tính tư duy. Điều cần thiết là phải phát minh ra một hệ thống xã hội mới hoàn thiện hơn, đồng thời dùng tuyên truyền và nếu có thể được thì dùng những thí nghiệm kiểu mẫu để gắn hệ thống ấy từ bên ngoài vào xã hội. Những hệ thống xã hội mới ấy ngay từ đầu đã không thể không rơi vào không tưởng và nó càng được quy định tỉ mỉ bao nhiêu thì nó càng rơi vào ảo tưởng thuần tuý bấy nhiêu.
Đã xác định rõ như thế rồi, chúng ta không nói thêm một chút nào nữa về phương diện ấy của vấn đề, hiện nay nó đã hoàn toàn thuộc về dĩ vãng rồi. Mặc cho những anh lái văn chương lặt chọn một cách trang nghiêm những ảo tưởng ngày nay chỉ đáng buồn cười ấy, mặc cho họ tự hào cho rằng phương thức tư duy minh mẫn của họ là cao hơn sự "cuồng loạn" kia. Chúng ta lấy làm vui sướng về những mầm tư tưởng thiên tài hoặc những tư tưởng thiên tài đang lộ ra khắp nơi dưới cái vỏ kỳ dị ấy, những tư tưởng mà bọn phi-li-xtanh mù không thấy được.
Xanh - Xi-mông là con đẻ của Đại cách mạng Pháp; khi cuộc cách mạng này bắt đầu nổ ra thì ông chưa đầy 30 tuổi. Cuộc cách mạng đó là thắng lợi của đẳng cấp thứ ba, tức là của đại đa số trong dân tộc, cái đa số tiến hành sản xuất và buôn bán, đối với đẳng cấp có đặc quyền và từ trước tới nay vẫn ăn không ngồi rồi - quý tộc và thầy tu. Nhưng chẳng bao lâu thắng lợi của đẳng cấp thứ ba tỏ ra chỉ là thắng lợi của một bộ phận nhỏ trong đẳng cấp ấy mà thôi: thắng lợi đó khiến tầng lớp được hưởng đặc quyền xã hội trong đẳng cấp thứ ba - giai cấp tư sản giàu có - giành được chính quyền. Và hơn nữa, giai cấp tư sản ấy càng phát triển nhanh chóng trong quá trình cách mạng, một mặt, bằng cách đầu cơ tài sản ruộng đất của bọn quý tộc và giáo hội lúc đó bị tịch thu và bị đem bán, mặt khác, bằng cách nhận thầu quân trang quân dụng mà lừa gạt dân tộc. Chính sự thống trị của bọn đầu cơ đó trong thời Viện chấp chính làm cho nước Pháp và cách mạng đi sát tới chỗ phá sản, và làm cho Na-pô-lê-ông có thể lấy cớ để tiến hành cuộc chính biến của y. Do đó, trong đầu óc của Xanh-Xi-mông, sự đối lập giữa đẳng cấp thứ ba và những đẳng cấp có đặc quyền mang hình thức đối lập giữa "những người lao động" và "những kẻ ăn không ngồi rồi". Nói những kẻ ăn không ngồi rồi không phải là chỉ nói những người trong đẳng cấp có đặc quyền trước kia, mà là nói tất cả những kẻ không tham gia sản xuất và buôn bán mà sống bằng tô tức. Nói "người lao động" không phải chỉ nói công nhân làm thuê, mà là nói cả những chủ xưởng, người đi buôn, nhà ngân hàng nữa. Những kẻ ăn không ngồi rồi đã mất hết năng lực lãnh đạo tinh thần và thống trị chính trị - điều đó không còn nghi ngờ gì cả và đã được cách mạng chứng minh một cách rõ ràng.
Và những người nghèo khổ cũng không có năng lực đó, điều đó, theo Xanh-Xi-mông, đã được kinh nghiệm của thời kỳ khủng bố chứng minh. Vậy trong tình hình đó, ai sẽ lãnh đạo và thống trị? Theo Xanh-Xi-mông thì phải là khoa học và công nghiệp, được kết hợp với nhau bởi một mối liên hệ tôn giáo mới, tức là một "đạo Cơ Đốc mới", tất nhiên là thần bí và có tính chất đẳng cấp sâu sắc, có sứ mệnh khôi phục lại sự thống nhất của những quan niệm tôn giáo đã bị phá hoại từ thời cải cách. Nhưng khoa học tức là những học giả, và công nghiệp trước hết là nhà tư sản tích cực, chủ xưởng, nhà buôn, chủ ngân hàng. Cố nhiên, những nhà tư sản ấy phải trở thành nhân viên của nhà nước được toàn xã hội tín nhiệm, nhưng đối với công nhân thì họ vẫn giữ địa vị chỉ huy và được hưởng những đặc quyền kinh tế. Còn chủ ngân hàng thì chính họ có sứ mệnh thông qua việc điều tiết tín dụng mà điều tiết toàn bộ sản xuất xã hội. Quan điểm ấy hoàn toàn thích hợp với thời đại mà ở Pháp nền đại công nghiệp và cùng với nó là sự đối lập giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, còn đang ở trong quá trình phát sinh. Nhưng có một điểm mà Xanh-Xi-mông đặc biệt nhấn mạnh là: bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu, ông ta cũng quan tâm trước hết đến số phận của "giai cấp đông nhất và nghèo khổ nhất" ("la classe la plus nombreuse et la plus pauvre").
Ngay trong tập "Những bức thư từ Giơ-ne-vơ" của Xanh-Xi-mông, chúng ta đã thấy nguyên tắc: "Mọi người đều phải lao động". Cũng trong tác phẩm ấy, ông đã chỉ ra rằng sự thống trị của thời đại khủng bố ở Pháp là sự thống trị của quần chúng không có của. Ông nói với họ: "Các anh hãy xem khi đồng chí của các anh thống trị nước Pháp thì tình hình ở đó là như thế nào: họ đã gây ra đói khổ".[8]
Nhưng vào năm 1802 mà đã hiểu được rằng cách mạng Pháp không phải chỉ là một cuộc đấu tranh giai cấp giữa quý tộc, giai cấp tư sản và giai cấp không có của thì đó là một phát hiện hết sức thiên tài. Năm 1816, Xanh-Xi-mông tuyên bố rằng chính trị chỉ là khoa học về sản xuất và đã báo trước rằng chính trị sẽ bị kinh tế hoàn toàn nuốt mất [9]. Nếu ở đây ý kiến cho rằng tình hình kinh tế là cơ sở của các thiết chế chính trị, chỉ mới biểu hiện dưới hình thức mầm mống thì trái lại, tư tưởng cho rằng việc quản lý người về chính trị phải biến thành việc quản lý vật và thành việc chỉ đạo quá trình sản xuất, nghĩa là tư tưởng "xoá bỏ nhà nước" mà gần đây người ta đã bàn tán rất nhiều, tư tưởng ấy ở đây đã được nêu lên một cách hoàn toàn rõ rệt. Năm 1814, ngay sau khi quân đồng minh vào Pa-ri và trong cuộc chiến tranh một trăm ngày năm 1815, Xanh-Xi-mông cũng tỏ ra sáng suốt như thế hơn những người đương thời khi ông tuyên bố rằng cái bảo đảm duy nhất cho sự phát triển hoà bình và sự phồn thịnh ở châu Âu là sự liên minh giữa Pháp và Anh và sau là giữa hai nước này với Đức [10]. Thật vậy, phải can đảm hết sức và phải có tầm mắt nhìn xa về lịch sử, mới dám cổ động người Pháp năm 1815 liên minh với kẻ chiến thắng ở Oa-téc-lô [11].
Nếu Xanh-Xi-mông có một tầm mắt rộng thiên tài, do đó quan điểm của ông chứa đựng mầm mống của hầu hết những tư tưởng kinh tế chưa chặt chẽ của những nhà xã hội chủ nghĩa sau này, thì Phu-ri-ê có một sự phê bình chế độ xã hội đương thời bằng một sự sắc sảo đặc biệt của người Pháp, nhưng không vì thế mà kém phần sâu sắc. Phu-ri-ê tóm lấy lời nói của giai cấp tư sản, của bọn tiên tri cuồng nhiệt của giai cấp đó trước cách mạng và của bọn xu nịnh mà chúng mua chuộc sau cách mạng. Ông thẳng tay lột trần cảnh khốn cùng về vật chất và về tinh thần của thế giới tư sản và đem đối chiếu cảnh khốn cùng ấy với những lời hứa hẹn cám dỗ của các nhà triết học khai sáng trước kia về việc xây dựng một xã hội chỉ có lý tính chi phối, về một nền văn minh đem lại đời sống hạnh phúc cho mọi người, về khả năng của con người tiến tới chỗ vô cùng hoàn hảo, cũng như với những lời nói tô hồng của những nhà tư tưởng tư sản cùng thời với ông; ông vạch rõ rằng bất cứ ở đâu, cái hiện thực thảm hại nhất cũng đi đôi với những lời lẽ văn hoa rỗng tuếch như thế nào, và trút hết những lời châm biếm rất chua cay lên trên sự phá sản hoàn toàn của những lời nói trống rỗng ấy. Phu-ri-ê không phải chỉ là một nhà phê bình, và do bản tính vui vẻ, ông lại là một nhà châm biếm và thậm chí là một trong những nhà châm biếm lớn nhất từ trước tới nay. Bằng những lời lẽ tài tình và lý thú, ông đã mô tả những mánh khoé đầu cơ thịnh hành trong thời kỳ cách mạng thoái trào và cái đầu óc con buôn nhỏ phổ biến trong thương nghiệp Pháp hồi bấy giờ. Tuyệt diệu hơn nữa là những lời ông phê phán hình thức tư sản của quan hệ nam nữ và địa vị xã hội của phụ nữ trong xã hội tư sản. Ông là người đầu tiên đã tuyên bố rằng trong một xã hội nhất định, trình độ giải phóng của phụ nữ là cái thước tự nhiên dùng để đo sự giải phóng chung [12]. Nhưng sự vĩ đại nhất của Phu-ri-ê là quan điểm của ông về lịch sử xã hội. Ông chia toàn bộ tiến trình của lịch sử xã hội từ trước đến nay thành bốn giai đoạn: giai đoạn mông muội, giai đoạn dã man, giai đoạn gia trưởng, giai đoạn văn minh; giai đoạn sau cùng, theo ông, là cái mà bây giờ gọi là xã hội tư sản, tức là cái trật tự xã hội phát triển từ thế kỷ XVI và ông chỉ ra rằng
"chế độ văn minh đã mang lại cho mọi tật xấu đã có từ thời đại dã man dưới hình thức đơn giản, một hình thức tồn tại phức tạp, ám muội, hai mặt và giả dối";
rằng, văn minh vận động trong "vòng luẩn quẩn", trong những mâu thuẫn không thể khắc phục được và luôn luôn tái sinh, thành thử nền văn minh luôn luôn đạt được những kết quả trái với điều mà nó mong muốn một cách thực tâm hay giả dối [13]. Thành thử chẳng hạn như:
"trong giai đoạn văn minh, sự nghèo khổ sinh ra từ chính bản thân sự dồi dào" [14].
Như chúng ta đã thấy, Phu-ri-ê vận dụng phép biện chứng một cách cũng tài tình như Hê-ghen là người đương thời với ông. Một cách cũng biện chứng như vậy, ông vạch ra rằng trái với những lời nói ba hoa về khả năng của con người tiến đến chỗ vô cùng hoàn hảo, mỗi thời đại lịch sử đều có con đường lên và con đường xuống của nó [15], và ông vận dụng cách nhìn ấy vào việc nhận xét tương lai của nhân loại nói chung. Cũng giống như Can-tơ đã đem tư tưởng về sự diệt vong sau này của quả đất vào khoa học tự nhiên, Phu-ri-ê cũng đem tư tưởng về sự diệt vong sau này của loài người vào trong quan niệm về lịch sử của mình.
Trong khi cơn bão táp cách mạng đương lan tràn khắp nước Pháp thì một cuộc cách mạng ít ồn ào hơn, nhưng cũng to lớn như thế, diễn ra ở Anh. Hơi nước và sản xuất mới bằng máy móc biến công trường thủ công thành đại công nghiệp hiện đại và do đó cách mạng hoá toàn bộ nền móng của xã hội tư sản. Tiến trình phát triển uể oải của thời kỳ công trường thủ công biến thành một thời kỳ vũ bão thật sự trong sản xuất. Xã hội ngày càng phân hoá nhanh chóng thành những nhà đại tư bản và những người vô sản không có của; giữa hai giai cấp ấy thì thay cho tầng lớp trung gian ổn định của thời trước, người ta thấy xuất hiện những đám quần chúng thợ thủ công và tiểu thương không ổn định, sống một cuộc sống rất bấp bênh và hình thành một bộ phận lưu động nhất trong dân cư. Phương thức sản xuất mới lúc đó mới chỉ vào giai đoạn đầu của thời kỳ đang lên của nó, nó vẫn còn là phương thức sản xuất bình thường, thích hợp, phương thức sản xuất duy nhất có thể có trong điều kiện lúc bấy giờ. Thế mà lúc ấy, nó đã gây ra những tai ương xã hội rõ ràng; sự chen chúc của một đám dân cư không nhà không cửa trong những căn nhà lụp xụp ghê tởm nhất ở các thành phố lớn; sự tan rã của mọi mối liên hệ cổ truyền về huyết thống, về sự phụ thuộc trong gia đình; sự kéo dài thời gian lao động đến cực độ, nhất là đối với phụ nữ và trẻ em; sự truỵ lạc của một số người đông đảo trong giai cấp lao động đột nhiên bị ném vào những điều kiện sinh hoạt hoàn toàn mới - từ nông thôn ra thành thị, từ nông nghiệp sang công nghiệp, từ những điều kiện sinh hoạt ổn định đến những điều kiện sinh hoạt bấp bênh thay đổi hàng ngày. Chính giữa lúc ấy thì một nhà cải cách xuất hiện, một chủ xưởng 29 tuổi, một người có tính giản dị, ngây thơ đến mức trở thành cao thượng, đồng thời cũng là một người bẩm sinh có tài lãnh đạo hiếm có. Rô-bớc Ô-oen đã tiếp thu học thuyết của các nhà duy vật khai sáng cho rằng tính cách của con người, một mặt là sản phẩm của cơ thể bẩm sinh của con người và mặt khác là sản phẩm của hoàn cảnh xung quanh con người trong suốt đời, nhất là trong thời kỳ phát triển của con người. Phần đông những chủ xưởng có cùng một địa vị xã hội với ông đều chỉ thấy cách mạng công nghiệp là sự rối loạn và hỗn độn thuận tiện cho việc buông câu nước đục và phát tài nhanh chóng. Rô-bớc Ô-oen đã thấy đó là cơ hội tốt để thực hiện lý tưởng mà mình hằng ôm ấp và do đó đem lại trật tự trở lại cho tình trạng hỗn độn. ở Man-se-xtơ, với tư cách là giám đốc một xưởng 500 công nhân, ông đã thử áp dụng lý tưởng ấy và thu được kết quả. Từ năm 1800 đến năm 1829, Rô-bớc Ô-oen điều khiển xưởng kéo sợi lớn Niu-La-nác-cơ ở Xcốt-len, và là người có cổ phần trong xí nghiệp, ông cũng hành động ở đây theo hướng đó, nhưng được tự do hành động nhiều hơn và đã thu được kết quả lớn hơn khiến ông nổi tiếng ở châu Âu. Số người trong xưởng Niu-La-nác-cơ dần dần tăng lên đến 2500, lúc đầu gồm những phần tử rất phức tạp và phần lớn hết sức hư hỏng, đã được Ô-oen biến đổi thành một khối hoàn toàn kiểu mẫu trong đó không còn nạn say rượu, cảnh sát, toà án hình, kiện cáo, các tổ chức cứu tế, và hội từ thiện nữa. Sở dĩ đạt được như thế, chỉ là vì ông đã để công nhân sống trong những điều kiện xứng đáng với phẩm cách của con người hơn và đặc biệt là đã quan tâm đến việc giáo dục tốt thế hệ đang lớn lên. Ở Niu-La-nác-cơ, đã thành lập những vườn trẻ mà Ô-oen là người đầu tiên sáng lập ra. Vườn trẻ nhận những trẻ em từ hai tuổi trở lên, ở đó chúng vui chơi thích thú đến nỗi cha mẹ chúng khó mà bảo chúng về được. Trong khi những người cạnh tranh với ông bắt công nhân làm mỗi ngày từ 13 đến 14 giờ thì thời gian lao động trong xưởng Niu-La-nác-cơ không quá 10 giờ rưỡi. Trong thời kỳ khủng hoảng bông, phải nghỉ việc mất bốn tháng mà công nhân vẫn tiếp tục lĩnh nguyên lương. Thế mà xưởng vẫn tăng được hơn gấp đôi số vốn của mình và cho đến lúc ngừng hẳn, xưởng vẫn đem lại cho các cổ đông rất nhiều tiền lãi.
Nhưng tất cả những điều đó chưa làm cho Ô-oen vừa lòng. Điều kiện sinh sống mà ông đã tạo ra cho công nhân của ông, theo con mắt nhận xét của ông thì còn xa mới xứng đáng với nhân phẩm con người. Ông nói:
"Những người ấy là nô lệ của tôi",
những điều kiện tương đối thuận tiện mà Ô-oen đã đem lại cho công nhân ở Niu-La-nác-cơ còn xa mới đủ để cho tính cách và trí tuệ của họ phát triển hợp lý và toàn diện và càng không đủ cho sự tự do hoạt động sinh tồn của họ.
"Nhưng một bộ phận lao động 2500 người sản xuất ra cho cả xã hội những của cải thực tế mà chưa đầy nửa thế kỷ trước đây còn cần phải 600 000 người mới có thể sản xuất ra. Tôi tự hỏi: chênh lệch giữa số vật phẩm mà 2500 người tiêu dùng với số vật phẩm đáng lẽ phải có cho 600 000 người tiêu dùng thì rút cục đi đâu?".
Câu trả lời cũng rõ thôi. Ngoài số lời hàng năm là 5% trả cho những người chủ sở hữu công xưởng tính theo nguyên vốn của họ thì chỗ chênh lệch đó còn đem lại cho họ một lợi nhuận là trên 300 000 pao xtéc-linh (6 000 000 mác). Xưởng Niu-La-nác-cơ đã như thế thì tất cả các công xưởng khác ở Anh lại càng như thế.
"Nếu không có nguồn của cải mới ấy do máy móc tạo ra thì không thể tiến hành được những cuộc chiến tranh lật đổ Na-pô-lê-ông và duy trì những nguyên tắc quý tộc của chế độ xã hội. Thế mà lực lượng mới ấy lại là sản phẩm của giai cấp lao động".
Vậy kết quả của lực lượng ấy cũng phải thuộc về giai cấp lao động. Lực lượng sản xuất mạnh mẽ mới, lúc trước, chỉ để làm giàu cho một số cá nhân và nô dịch quần chúng thì bây giờ, đối với Ô-oen, đã trở thành cơ sở để cải tạo xã hội, và với tư cách là của chung của mọi người, nên phải được dùng để mưu đời sống hạnh phúc chung.
Chính từ hoạt động doanh nghiệp thuần tuý đó, có thể nói là sự tính toán nhà buôn, mà nảy sinh ra chủ nghĩa cộng sản của Ô-oen. Chủ nghĩa cộng sản của ông luôn giữ tính chất thực tiễn ấy. Chẳng hạn, năm 1823, khi đề ra kế hoạch dùng những khu vực cộng sản chủ nghĩa để xoá bỏ những sự khốn cùng ở Ai-rơ-len, Ô-oen đã kèm thêm một bản dự trù chi tiết về số tiền cần phải bỏ ra để xây dựng, về những chi phí hàng năm và số thu nhập có thể có được [16]. Hay như trong kế hoạch cuối cùng của ông về xã hội tương lai, tất cả những chi tiết đều được quy định về mặt kỹ thuật - thậm chí có cả sơ đồ nhà ở của công nhân, sơ đồ nhìn phía trước và từ trên xuống - một cách thông thạo khiến cho nếu tiếp nhận kế hoạch cải tạo xã hội của ông thì về mặt những chi tiết tổ chức cũng ít có chỗ bắt bẻ được, ngay cả về mặt kỹ thuật nữa.
Bước chuyển hướng sang chủ nghĩa cộng sản là bước ngoặt trong đời Ô-oen. Chừng nào ông chỉ hoạt động với tư cách là một kẻ thương người thì ông được giàu có, tiếng tăm, danh vọng và danh dự. Ông đã từng là người có tiếng tăm nhất ở châu Âu. Không chỉ những người cùng địa vị xã hội với ông mà cả những chính khách trọng yếu và những ông hoàng cũng nghe và tán thành ông. Nhưng khi ông đưa lý luận cộng sản chủ nghĩa của ông ra thì tình hình thay đổi ngay lập tức. Theo ông thì trước hết có ba trở lực lớn ngăn cản con đường đi tới cải cách xã hội: sở hữu tư nhân, tôn giáo, hình thức hôn nhân hiện có. Khi bắt đầu đấu tranh chống những trở lực ấy, ông biết rằng ông sẽ bị gạt ra ngoài xã hội quan phương và mất địa vị xã hội của mình. Nhưng những điều đó không thể cản trở được Ô-oen, không thể làm yếu sức mạnh công kích dũng cảm của ông. Và tất cả những điều ông dự đoán đều xảy ra. Bị gạt ra ngoài xã hội quan phương, bị báo chí lờ đi không đả động gì đến mình, mất hết tài sản vì những thí nghiệm cộng sản chủ nghĩa bị thất bại ở châu Mỹ, những thí nghiệm mà ông đã hy sinh toàn bộ tài sản của ông để tiến hành, ông liền trực tiếp nhờ đến giai cấp công nhân và trong 30 năm sau ông vẫn tiếp tục hoạt động trong giai cấp công nhân. Mọi phong trào xã hội vì lợi ích của giai cấp công nhân ở nước Anh và mọi thành tựu thực sự của những phong trào ấy đều gắn liền với tên tuổi của Ô-oen. Chẳng hạn như nhờ 5 năm cố gắng của ông, nên năm 1819 đạo luật đầu tiên hạn chế lao động của phụ nữ và trẻ em trong các công xưởng đã được thông qua [17]. Ông đã chủ toạ đại hội đầu tiên, trong đó các hội công liên toàn nước Anh liên hợp thành một tổng hội lớn duy nhất 133. Để dùng làm biện pháp quá độ tiến lên chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa hoàn toàn, một mặt ông tổ chức ra những hợp tác xã (tiêu dùng và sản xuất), những hợp tác xã này, từ ngày đó, ít ra cũng đã chứng minh trong thực tiễn rằng nhà buôn và chủ xưởng là những người mà người ta rất có thể không cần đến; mặt khác ông tổ chức ra những thương trường lao động là nơi để trao đổi các sản phẩm của lao động bằng một thứ tiền giấy lao động mà đơn vị giá trị là giờ lao động 134. Những thương trường ấy - tất nhiên phải thất bại - là một dự kiến đầy đủ về cái ngân hàng trao đổi mà Pru-đông đề ra sau này 135, và những thương trường ấy chỉ khác ngân hàng trao đổi ở chỗ là chúng không được coi là thứ thuốc vạn ứng chữa mọi bệnh xã hội mà chỉ là bước thứ nhất để đi tới một cuộc cải cách xã hội triệt để hơn nhiều.
Phương thức tư tưởng vốn có của những nhà không tưởng đã chi phối lâu dài các quan điểm xã hội chủ nghĩa của thế kỷ XIX, và cho đến nay phần nào vẫn còn chi phối. Tất cả những người xã hội chủ nghĩa Pháp và Anh cũng như chủ nghĩa cộng sản Đức trước kia, kể cả Vai-tlinh, mới đây thôi đều còn giữ phương thức tư tưởng đó. Đối với tất cả những người ấy, chủ nghĩa xã hội là biểu hiện của chân lý tuyệt đối, của lý tính tuyệt đối và chính nghĩa tuyệt đối, và chỉ cần phát hiện ra nó là có thể chinh phục toàn thế giới bằng lực lượng của bản thân nó; nhưng vì chân lý tuyệt đối không phụ thuộc vào thời gian, không gian và sự phát triển lịch sử của loài người, cho nên việc nó được phát hiện ra lúc nào và ở đâu, là một việc thuần tuý ngẫu nhiên. Hơn nữa chân lý, lý tính và chính nghĩa tuyệt đối là không giống nhau ở mỗi người sáng lập ra một học phái nào đó; mỗi dạng đặc biệt của chân lý, lý tính và chính nghĩa tuyệt đối ở từng người sáng lập ra một học phái nào đó lại còn tuỳ thuộc vào đầu óc chủ quan, điều kiện sinh hoạt, trình độ tri thức và trình độ phát triển tư duy của họ nữa. Vì thế, sự xung đột ấy giữa các chân lý tuyệt đối chỉ có thể được giải quyết bằng một cách duy nhất là để cho chúng mài mòn lẫn nhau mà thôi. Do đó, không thể có được một cái gì khác hơn là một chủ nghĩa xã hội chiết trung, cái loại chủ nghĩa xã hội, trong thực tế, mãi cho đến nay, vẫn còn chi phối đầu óc của đại đa số những công nhân xã hội chủ nghĩa ở hai nước Anh, Pháp. Chủ nghĩa xã hội chiết trung ấy là một mớ hỗn hợp đủ mọi sắc thái bao gồm những nhận xét phê phán ôn hoà hơn, những nguyên lý kinh tế và những khái niệm của các nhà sáng lập các học phái đối với xã hội tương lai - và cái mớ hỗn hợp này lại càng dễ có được khi trong mỗi bộ phận cấu thành của nó, những góc cạnh sắc bén của sự chính xác đã bị mòn đi qua các cuộc tranh cãi như đá mòn dưới lòng nước chảy. Muốn làm cho chủ nghĩa xã hội thành một khoa học thì trước hết phải đặt chủ nghĩa xã hội trên một cơ sở hiện thực.
- Do Ph.Ăng-ghen viết vào tháng Giêng - nửa đầu tháng Ba 1880
- Đã đăng trong tạp chí "La Revue socialiste" các số 3, 4, 5; ngày 20 tháng Ba; 20 tháng Tư; 5 tháng Năm 1880;
- và in thành cuốn sách mỏng bằng tiếng Pháp: F. Engels. "Socialisme utopique et socialisme scientifique". Paris, 1880.
- In theo bản tiếng Đức xuất bản năm 1891, có đối chiếu với bản tiếng Pháp xuất bản năm 1880.
* "Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học" ra đời từ ba chương trong tác phẩm của Ph.Ăng-ghen "Chống Duy-rinh" viết trong những năm 1877 – 1878. Theo yêu cầu của P.La-phác-gơ, năm 1880, Ăng-ghen đã sửa lại ba chương của "Chống Đuy-rinh" (chương I của "Lời nói đầu" và các chương I và II của phần thứ ba) thành một tác phẩm riêng có tính chất phổ thông, ban đầu đăng trên tờ tạp chí xã hội chủ nghĩa Pháp "La Revue socialisle" với nhan đề "Chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học", sau đó xuất bản thành một tập sách mỏng riêng vào năm đó. Bản tiếng Pháp là cơ sở cho bản tiếng Ba Lan và tiếng I-ta-li-a. Năm 1883, tập sách mỏng được in bằng tiếng Đức với nhan đề: "Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học" (trên bìa trong có ghi rõ năm 1882). Khi Ăng-ghen còn sống, tập sách mỏng này được dịch từ tiếng Đức ra nhiều tiếng châu âu khác và được lưu hành rộng rãi trong công nhân, có tác dụng to lớn trong việc tuyên truyền tư tưởng mác-xít. Lần xuất bản cuối cùng khi Ăng-ghen còn sống (lần thứ tư) là lần xuất bản ở Béc-lin năm 1891. Tập sách mỏng này khác với các chương tương ứng trong "Chống Đuy-rinh" về cách sắp xếp tài liệu, có một số điểm bổ sung và sửa chữa so với nguyên văn của "Chống Đuy-rinh".-271.
[1] G.W.F. Hegel. "Philosophie der Geschichte". Werke. 2. Aufl. Bd. IX. Berlin. 1840.
[2] Theo lý luận của Rút-xô thì ban đầu con người sống trong điều kiện của trạng thái tự nhiên. Trong đó tất cả đều bình quân. Sự ra đời của chế độ tư hữu và sự phát triển của tình trạng bất bình đẳng về tài sản đã làm cho con người từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái công dân và dẫn tới sự hình thành nhà nước dựa trên khế ước xã hội. Nhưng, sự phát triển sau này của tình trạng bất bình đẳng về chính trị dẫn tới sự phá hoại khế ước xã hội và dẫn tới sự ra đời của trạng thái tự nhiên mới. Việc tiêu diệt trạng thái này là sứ mệnh của nhà nước lý tính dựa trên khế ước xã hội mới. Lý luận ấy được phát triển trong các tác phẩm của Rút-xô "Discours sur I'origine et les fondements de I'inégalité" parmiles hommes". Amsterdam, 1755 ("Bàn về nguồn gốc và nền tảng của sự bất bình đẳng giữa con người". Am-xtéc-đam, 1755) và "Du contrat social; ou, principes du droit politique". Amsterdam, 1762 ("Về khế ước xã hội; hay là những nguyên tắc của quyền chính trị". Am-xtéc-đam, 1762).
[3] Ăng-ghen có ý muốn nói đến phái "san bằng chân chính" ("những người bình quân chủ nghĩa chân chính"), hoặc "phái đào bới" là đại biểu của cánh cực tả trong thời kỳ cách mạng tư sản Anh ở thế kỷ XVII. "Phái đào bới" thể hiện lợi ích của tầng lớp dân nghèo nông thôn và thành thị, đưa ra yêu cầu đòi thủ tiêu chế độ tư hữu ruộng đất, tuyên truyền tư tưởng chủ nghĩa cộng sản bình quân nguyên thuỷ và định thực hiện tư tưởng ấy bằng cách khai khẩn tập thể ruộng đất công hữu.
[4] Trước hết. Ăng-ghen có ý muốn nói đến các tác phẩm của đại biểu của chủ nghĩa cộng sản không tưởng là T.Mô-rơ ("U-tô-pi", xuất bản năm 1516) và T.Căm-pa-ne-la ("Thành phố Mặt trời", xuất bản năm 1623).
[5] Thời kỳ khủng bố là thời kỳ chuyên chính dân chủ – cách mạng của phái Gia-cô-banh (tháng Sáu 1793 – tháng Bảy 1794) khi phái Gia-cô-banh sử dụng khủng bố cách mạng để đáp lại khủng bố phản cách mạng của phái Gi-rông-đanh và phái bảo hoàng. Viện chấp chính (gồm năm viên chấp chính, mỗi năm bầu lại một người) là cơ quan lãnh đạo quyền hành ở Pháp, thành lập theo hiến pháp năm 1795 được thông qua sau khi nền chuyên chính cách mạng của phái Gia-cô-banh sụp đổ năm 1794: Viện chấp chính tồn tại cho đến cuộc chính biến của Bô-na-pác-tơ năm 1799: nó ủng hộ chế độ khủng bố chống lại các lực lượng dân chủ và bảo vệ lợi ích của giai cấp đại tư sản.
[6] Có ý muốn nói đến khẩu hiệu của cách mạng tư sản Pháp vào cuối thế kỷ XVIII: "Tự do, Bình đẳng, Bác ái".
[7] "Lettres d'un habitant de Genève à ses contemporains" ("Những bức thư của một người dân ở Giơ-ne-vơ gửi những người cùng thời") là tác phẩm đầu tiên của Xanh-Xi-mông: được viết ở Giơ-ne-vơ năm 1802, được công bố ở Pa-ri năm 1803 dưới hình thức không ghi tên tác giả, không ghi rõ nơi và thời gian xuất bản. Ăng-ghen đã sử dụng bản in: G.Hubbard. "Saint-Simon. Sa vie et ses travaux. Suivi de fragments des plus célèbres écrits de Saint-Simon". Paris, 1857 (G.Huýp-ba. "Xanh-Xi-mông. Thân thế và tác phẩm. Kèm theo những đoạn trích trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Xanh-Xi-mông". Pa-ri, 1857). Trong bản in này, ngày tháng của một số tác phẩm riêng lẻ của Xanh-Xi-mông không được chính xác. Tác phẩm lớn đầu tiên của Phu-ri-ê là cuốn "Théorie des quatre mouvements et des destinées générales" ("Học thuyết về bốn vận động và về những số phận chung"), viết vào những năm đầu của thế kỷ XIX và xuất bản không đề tên tác giả ở Li-ông năm 1808 (địa điểm xuất bản ghi trên bìa trong là Lai-pxích, chắc để đề phòng kiểm duyệt). Niu La-nác-cơ (New Lanark) là xưởng sợi bông gần thành phố La-nác-cơ ở Xcốt-len, được xây dựng năm 1784 cùng với một xóm thợ nhỏ ở gần xưởng.
[8] Ăng-ghen trích dẫn bức thư thứ hai trong tác phẩm của Xanh-Xi-mông "Những bức thư của một người dân ở Giơ-ne-vơ gửi những người cùng thời". Trong bản in của Huýp-ba, những đoạn ấy ở vào các trang 143 và 135.
[9] Ăng-ghen có ý muốn nói đến đoạn trích trong "Những bức thư của H. Xanh-Xi-mông gửi một người Mỹ" (bức thư thứ tám). Những bức thư này được in trong tuyển tập: H.Saint-Simon. "L'industrie, ou Discussions politiques, morales et philosophiques, dans I'intérêt de tous les hommes livrés à des travaux utiles et indépendants". T. II, Paris, 1817 (A. Xanh-Xi-mông "Công nghiệp, hay là Bàn về chính trị, đạo đức và triết học vì lợi ích của tất cả những người đã cống hiến sức mình cho những việc làm có ích và độc lập". T.II, Pa-ri. 1817). Trong bản in của Huýp-ba, đoạn trích ấy ở vào trang 155 – 157.
[10] Ăng-ghen có ý muốn nói đến hai tác phẩm mà Xanh-Xi-mông viết cùng với học trò của mình là Ô Chi-e-ri: "De la réorganisation de la socitété européenne, ou de la nécessité et des moyens de rassembler les peuples de I' Europe en un seul corps politique, en conservant à chancun son indépendance nationale" ("Bàn về việc cải tổ xã hội châu Âu hay là về tính tất yếu và những biện pháp để liên hợp các dân tộc châu Âu thành một chính thể chính trị duy nhất trong điều kiện duy trì nền độc lập dân tộc của mỗi dân tộc") và "Opinion sur les mesures à prendre contre la coalition de 1815" ("ý kiến về những biện pháp cần thi hành để chống lại liên minh năm 1815"); cả hai cuốn đều xuất bản ở Pa-ri, cuốn thứ nhất vào tháng Mười 1814, cuốn thứ hai vào năm 1815. Trong bản in của Huýp-ba, đoạn trích của tác phẩm thứ nhất ở vào trang 149 – 154, còn nội dung của cả hai tác phẩm ấy được trình bày ở trang 68. Quân đồng minh của các nước tham gia liên minh chống Pháp lần thứ sáu (Nga, áo, Anh, Phổ và những nước khác, đã tiến vào Pa-ri ngày 31 tháng Ba 1814. Đế chế của Na-pô-lê-ông bị sụp đổ, còn bản thân Na-pô-lê-ông sau khi thoái vị, bị đày ra đảo En-bơ. ở Pháp diễn ra cuộc phục tích thứ nhất của triều đại Buốc-bông. Một trăm ngày là thời kỳ khôi phục ngắn ngủi của đế chế Na-pô-lê-ông kể từ khi từ nơi bị đày trên đảo En-bơ Na-pô-lê-ông trở về Pa-ri ngày 20 tháng Ba 1815 cho đến cuộc thoái vị lần thứ hai ngày 22 tháng Sáu cũng năm ấy sau thất bại ở Oa-téc-lô
[11] Tại Oa-téc-lô (Bỉ) ngày 18 tháng Sáu 1815, quân đội của Na-pô-lê-ông bị quân đội Anh – Hà Lan do Oen-linh-tơn chỉ huy và quân đội Phổ do Bluy-khơ chỉ huy, đánh bại. Trận đánh này đóng vai trò quyết định trong chiến dịch năm 1815, nó quyết định trước thắng lợi cuối cùng của liên minh chống Pháp lần thứ bảy (Anh, Nga, áo, Phổ, Thuỵ Điển, Tây Ban Nha và các nước khác) và sự sụp đổ của đế chế Na-pô-lê-ông.
[12] Tư tưởng này đã được phát triển ngay trong cuốn sách đầu tiên của Phu-ri-ê "Học thuyết về bốn vận động" trong đó đặc biệt có luận điểm chung sau đây: "Tiến bộ xã hội và những biến đổi của thời đại diễn ra phù hợp với sự tiến bộ của phụ nữ trên con đường đi đến tự do, còn sự suy sụp của chế độ xã hội thì diễn ra phù hợp với sự giảm bớt tự do của phụ nữ". Phu-ri-ê tóm tắt luận điểm ấy trong công thức: "mở rộng quyền lợi của phụ nữ là nguyên tắc cơ bản của mọi tiến bộ xã hội" (Ch. Fourier. Oeuvres complètes, t.I, Paris, 1841, p.195 – 196).
[13] Xem Ch. Fourier. "Théorie de I'unité universelle", vol. I et IV; Oeuvres complètes, t.II, Paris, 1843, p.78 – 79 et t.V, Paris, 1841, p.213 – 214 (S.Phu-ri-ê. "Học thuyết về sự thống nhất của thế giới", t.I và IV; Toàn tập, t.II, Pa-ri, 1843, tr. 78 – 79 và t.V, Pa-ri, 1841, tr. 213. Về "cái vòng luẩn quẩn" trong đó chế độ văn minh vận động, xem Ch.Fourier. "Le Nouveau Monde industriel et sociétaire, ou Invention du procéđé d'industrie attrayante et naturelle distribuée en séries passionnées"; Oeuvres complètes, t.VI, Paris, 1845, p. 27 – 46, 390 (S. Phu-ri-ê "Thế giới công nghiệp và hiệp hội mới, hay là Sự phát minh ra phương thức làm ăn hấp dẫn và tự nhiên, được phân thành các chủng loại theo nhiệt tình"; Toàn tập, t.VI, Pa-ri, 1845, tr. 27-46, 390). Bản in lần thứ nhất của tác phẩm này xuất bản ở Pa-ri năm 1829. Xin xem thêm Ch. Fourier. Oeuvres complètes, t.I, Paris, 1841, p.2002.
[14] Ch. Fourier. Oeuvres complètes, t.VI, Paris, 1845, p.35.
[15] Ch. Fourier. , t.VI, Paris, 1841, p.50 et suiv.
[16] R.Owen. "Report of the proceedings at the several public meetings, held in Dublin... on the 18th March, 12th April, 19th April and 3rd may". Dublin, 1823 (R.Ô-oen. "Báo cáo về một số cuộc mít-tinh quần chúng họp ở Đu-blin... ngày 18 tháng Ba, 12 và 19 tháng Tư và 3 tháng Năm", Đu-blin, 1823).
[17] Tháng Giêng 1815, tại một cuộc mít-tinh quần chúng lớn ở Gla-xgô, Ô-oen đề nghị một loạt biện pháp để cải thiện tình cảnh của công nhân trẻ em và người lớn ở các công xưởng. Dự luật mà Ô-oen đưa ra tháng Sáu 1815 mãi đến tháng Bảy 1819 mới được nghị viện thông qua thành luật, hơn nữa lại bị cắt xén đi rất nhiều. Đạo luật này điều tiết lao động ở các xưởng sợi bông, đã cấm lao động của trẻ em dưới 9 tuổi, hạn chế ngày lao động của công nhân dưới 18 tuổi là 12 giờ và qui định tất cả công nhân được nghỉ hai lần để ăn sáng và ăn trưa, cộng tất cả là một giờ rưỡi.
Vận dụng triệt để quan niệm duy vật về lịch sử vào nghiên cứu đời sống xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin để lại một hệ thống lý luận cơ bản, lịch sử, cụ thể về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. (Nguồn ảnh: tuyengiao.vn)
1. Lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin
Vận dụng triệt để quan niệm duy vật về lịch sử vào nghiên cứu đời sống xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin để lại một hệ thống lý luận cơ bản, lịch sử, cụ thể về TKQĐ lên CNXH, có giá trị định hướng con đường phát triển đi lên của các dân tộc theo quy luật phát triển chung của thời đại và đặc thù của các quốc gia - dân tộc. Hệ thống đó dựa trên cơ sở khoa học và bao gồm:
Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội do C.Mác và Ph.Ăngghen phát minh tạo nên cuộc cách mạng trong quan niệm về lịch sử xã hội loài người, là cơ sở khoa học để nhận thức chân thực về TKQĐ. Trên cơ sở quan điểm sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội, đồng thời là cơ sở quyết định sự hình thành, phát triển, thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội, các ông làm sáng tỏ, xã hội loài người đã và sẽ tuần tự trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao [1]; đỉnh cao, tiến bộ nhất là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa (CSCN). Giữa các hình thái ấy luôn có một thời kỳ chuyển tiếp được gọi là TKQĐ.
Lý luận về phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội CSCN. Phân tích TKQĐ từ xã hội TBCN sang xã hội CSCN ở các nước TBCN đã phát triển cao nhất, C.Mác chỉ ra và xác định hai giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội CSCN: Giai đoạn thấp là XHCN, giai đoạn cao là CSCN. Ở giai đoạn XHCN, chế độ kinh tế và sự phát triển của văn hóa mới đạt tới giới hạn và chỉ bảo đảm cho xã hội thực hiện nguyên tắc “Làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Ở giai đoạn CSCN, con người không còn bị lệ thuộc vào sự phát triển của lao động; lao động vừa là phương tiện sống, vừa trở thành nhu cầu bậc nhất của cuộc sống; sự phát triển phi thường của lực lượng sản xuất tạo ra năng suất lao động ngày càng tăng, của cải tuôn ra dào dạt… xã hội đủ các điều kiện vật chất và tinh thần để thực hiện nguyên tắc“Làm hết năng lực, hưởng theo nhu cầu”; sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
Xác định, luận giải về XHCN là TKQĐ từ CNTB lên CNCS được C.Mác phân tích: 1) Không gian và thời gian là “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia” [3]; 2) Thực chất xã hội thời kỳ đó “không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra” [3], “Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản” [4]; 3) Công cụ để thực hiện sự cải biến đó là nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.
Thống nhất với chủ nghĩa Mác về phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội CNCS, vận dụng vào phân tích, xem xét ở những nước chưa có lực lượng sản xuất phát triển cao như nước Nga Xô viết, hoặc chưa trải qua CNTB mà lại đang và sẽ bỏ qua chế độ CNTB; cùng sự phân tích những thành phần, bộ phận, đặc điểm không thuần nhất, đan xen, thâm nhập lẫn nhau của các yếu tố của CNTB và CNXH, thấy được sự lấn át của xã hội cũ đối với xã hội mới và tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của thời kỳ này, V.I.Lênin đã phân chia quá trình hình thành, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội CNCS thành ba giai đoạn: I “những cơn đau đẻ kéo dài”, II “giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa”, III “giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa”. Ở đó, xác định: “giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa sau những cơn đau đẻ kéo dài” [5].
Từ sự phân tích, đánh giá trên đây, V.I.Lênin đã đưa ra khái niệm về thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH, đó là: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu” [6].
Nghiên cứu, phát triển chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin làm sâu sắc tính chất lâu dài, phức tạp của TKQĐ lên CNXH ở những nước trình độ phát triển khác nhau, rằng: Với những nước chưa có CNTB phát triển cao mà đi lên CNXH, “cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội” [7]. Tính chất đó được quy định bởi chỗ thời kỳ đó không chỉ phải làm nhiệm vụ của TKQĐ từ CNTB lên CNXH mà còn phải thực hiện cả một loạt nhiệm vụ mà đáng lẽ CNTB đã phải làm trước khi cách mạng vô sản nổ ra, như xóa bỏ các tàn tích phong kiến, kiến lập nền công nghiệp cơ khí hóa… Với những nước càng ít phát triển, “tất yếu phải có một thời kỳ quá độ lâu dài và phức tạp từ xã hội tư bản chủ nghĩa (xã hội đó càng ít phát triển, thì thời kỳ đó càng dài),… chỉ là một trong những bước đầu tiên tiến lên xã hội cộng sản chủ nghĩa” [8]. Đây là giá trị lý luận khoa học đặc sắc được đúc rút từ tính quy luật: CNXH ra đời trên cơ sở của sự phát triển đến đỉnh cao của CNTB; đồng thời, tuân thủ tính khách quan: CNXH có thể ra đời từ xuất phát điểm thấp hơn CNTB khi có những điều kiện, tiền đề và thời cơ chín muồi (những khả năng, con đường hiện thực của một xã hội mới - xã hội XHCN mà thực tiễn tất yếu cách mạng đã đem lại).
Với thực tiễn những năm đầu của TKQĐ lên CNXH ở nước Nga Xô viết giúp cho V.I.Lênin đưa ra kết luận khoa học: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội” [9]… Từ đó, xác lập nên hai hình thức cơ bản của TKQĐ lên CNXH: 1) Quá độ trực tiếp - từ những nước tư bản phát triển lên CNXH; 2) Quá độ gián tiếp - từ những nước chưa qua giai đoạn phát triển TBCN lên CNXH.
Ở hình thức quá độ thứ hai - quá độ bỏ qua CNTB lên CNXH, V.I.Lênin chỉ ra, nhiệm vụ của TKQĐ sẽ nặng nề, khó khăn, phức tạp hơn, bởi phải thực hiện “kép” cả hai nhiệm vụ là xây dựng CNXH về mặt chính trị, xã hội và đạt được những thành tựu cơ bản của CNTB về mặt khoa học, lực lượng và trình độ sản xuất. Do vậy, ông nhấn mạnh và đòi hỏi sự cần thiết phải trải qua nhiều bước trung gian, quá độ mới có thể xây dựng thành công CNXH, ví như, phải “bắc những nhịp cầu nhỏ” đi xuyên qua kinh tế tư bản để từng bước xây dựng CNXH. Đồng thời, lưu ý “chúng ta phải hiểu những đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách trung gian cần thiết để chuyển từ những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Đó là mấu chốt của vấn đề” [10].
2. Sự bổ sung, phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta
Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn vận dụng sáng tạo và bổ sung, phát triển lý luận về TKQĐ lên CNXH phù hợp với đặc điểm, bối cảnh, tình hình cách mạng nước ta, thể hiện ở tổng quan chung, lịch sử và cụ thể, đó là:
Khẳng định phương hướng, con đường tất yếu đi lên CNXH và CNCS của cách mạng Việt Nam là theo con đường chung: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội” như chủ nghĩa Mác - Lênin đề ra. Đó là con đường đã được Cương lĩnh đầu tiên của Đảng xác định: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”; và Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ ra: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”. Con đường đó tất yếu sẽ trải qua TKQĐ lên CNXH với những dấu ấn, đặc trưng của cách mạng Việt Nam.
Thừa nhận tính chất khó khăn, phức tạp, lâu dài, nhưng làm rõ đặc điểm TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam: “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” [11]; “một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng” [12]; “là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ” [13].
Thừa nhận ở Việt Nam có một TKQĐ lên CNXH, nhưng bổ sung, xác định nội dung mới: “quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” [14]. Lựa chọn hình thức quá độ gián tiếp, nhưng Đảng có bước phát triển mới về nhận thức là không bỏ qua hoàn toàn CNTB với tính cách là một hình thái kinh tế - xã hội TBCN, mà kế thừa có chọn lọc những thành tựu, trước hết là về khoa học và công nghệ nhân loại đạt được trong CNTB, chỉ bỏ qua CNTB với tính cách là một chế độ chính trị.
Thừa nhận định tính phổ quát về kinh tế, chính trị, xã hội của TKQĐ lên CNXH như chủ nghĩa Mác - Lênin xác định, nhưng Đảng ta lại tiến xa hơn, cụ thể hóa, xác lập nên các mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể ở những chặng đường khác nhau của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam.
Sau năm 1975, ở “chặng đường đầu tiên” quá độ đi lên CNXH, Đại hội IV xác định phương hướng chung: “nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng… mà cách mạng kỹ thuật là then chốt”; công nghiệp hóa XHCN là “nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ, nhằm xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội” [15]. Nhờ đó, tạo điều kiện cho Đại hội VI xác định “mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo” [16]. Với nhận thức ban đầu đó, trên cơ sở đánh giá thành tựu, hạn chế của hơn 15 năm xây dựng CNXH trên cả nước, cùng sự nhận thức rõ hơn về tính chất đặc điểm của TKQĐ, tại Cương lĩnh năm 1991, Đảng ta đã xác định: “Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”; đồng thời chỉ ra: “Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau” [17].
Sau 21 năm lãnh đạo cả nước tiến hành các nhiệm vụ ở chặng đường đầu tiên của TKQĐ, tổng kết việc thực hiện mục tiêu của Đại hội VII và Cương lĩnh 1991, căn cứ vào tình hình thực tế đất nước, từ Đại hội VIII (1996), Đảng ta xác định: “thế và lực của đất nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng… tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [18]. Kể từ năm 1996 đến năm 2020, khi nước ta chuyển sang “thời kỳ phát triển mới”, trong mục tiêu tổng quát của các đại hội thời kỳ này (Đại hội VIII đến Đại hội XI), cùng với việc phấn đấu thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế, chính trị - xã hội, đối ngoại, Đảng ta luôn điều chỉnh và tiến tới xác định mục tiêu “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, nhằm “tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau” [19].
Với cột mốc về thời gian bắt đầu từ năm 2020, Đảng ta đã đề ra: “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Do vậy, mục tiêu cụ thể “để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau” của TKQĐ lên CNXH hiện nay chính là: “Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [20], như Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định, và Đại hội XII, XIII tiếp tục bổ sung, cụ thể hóa rõ hơn, đó là: “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, Việt Nam trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [21].
Thừa nhận những mô hình cơ bản về xây dựng CNXH, nhưng bổ sung, tiến tới xác lập ngày càng đầy đủ, hoàn thiện về thể chế kinh tế, mô hình nhà nước trong TKQĐ lên CNXH.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra những mô hình khái lược về xây dựng CNXH ở những nước có trình độ phát triển và xuất phát điểm khác nhau trong TKQĐ lên CNXH. Đảng ta đã tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo, bổ sung, phát triển phù hợp đặc điểm chung và tình hình cụ thể ở mỗi chặng đường quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam. Đúc kết những mục tiêu, mô hình đã định ra và xây dựng ở chặng đường đầu TKQĐ lên CNXH, Cương lĩnh 1991 do Đại hội VII đã xác định 6 đặc trưng về xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng [22]. Tổng kết thành tựu trong quá trình xây dựng đất nước trong “thời kỳ phát triển mới”, đồng thời định hướng cho “giai đoạn sau” đến giữa thế kỷ XXI, Văn kiện Đại hội X (2006) và Cương lĩnh (Bổ sung phát triển năm 2011) của Đại hội XI đã bổ sung toàn diện, hoàn thiện hơn thành 8 đặc trưng xã hội XHCN mà nhân dân ra xây dựng là: “một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản” [23]. Trong đó, đặc trưng bao trùm, tổng quát là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thể chế kinh tế trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam được Đảng ta tập trung xây dựng, từng bước bổ sung, hoàn thiện. Nếu như từ Đại hội VI (1991) đến Đại hội VII, Đảng khởi thảo và tiến tới xác định trong Cương lĩnh 1991: “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần” là đặc trưng cơ bản của thể chế kinh tế ở TKQĐ lên CNXH, thì đến Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Văn kiện Đại hội XII đã thống nhất xác định: “Thống nhất nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước” [24]. Đến Đại hội XIII (2021) tiếp tục khẳng định và thống nhất định hướng: “Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [25].
Mô hình nhà nước XHCN mà nhân dân ta tập trung xây dựng cũng liên tục được nhận thức, bổ sung, phát triển qua các kỳ đại hội. Từ khái niệm “dân chủ”, “hệ thống chính trị” xác lập tại Hội nghị Trung ương 3 khóa VI (1989), tiếp đến khái niệm “Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” do Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994) nêu lên, sau là khái niệm: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo” được nêu lên trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011), và Đại hội XIII tiếp tục xác định… là những bước phát triển lớn trong nhận thức về mô hình Nhà nước XHCN ở Việt Nam trong TKQĐ lên CNXH.
Đại hội XIII của Đảng là một cột mốc quan trọng trong lịch sử Đảng, đánh dấu cả một quá trình hình thành, bổ sung, phát triển cũng như đúc kết những vấn đề lý luận cơ bản, toàn diện về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Trong đó, lý luận về TKQĐ lên CNXH của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được Đảng ta trung thành và vận dụng sáng tạo không ngừng, đem lại nhưng tư duy, nhận thức mới về CNXH ở Việt Nam; đồng thời, mở ra một thời kỳ phát triển mới của dân tộc Việt Nam trên con đường đi lên CNXH./.
[1] Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
[2], [3], [4] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.47, 33, 47.
[5] V.I.Lênin: Toàn tập, tập 33, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.223.
[6] V.I.Lênin: Toàn tập, tập 39, Sđd, 2005, tr.309-310.
[7] V.I.Lênin: Toàn tập, tập 38, Sđd, 2006, tr.464.
[8] V.I.Lênin: Toàn tập, tập 44, Sđd, 2006, tr.197.
[9] V.I.Lênin: Toàn tập, tập 30, Sđd, 2006, tr.160.
[10] V.I.Lênin: Toàn tập, tập 43, Sđd, 2005, tr.274
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2001, tr.411.
[12], [16] Văn kiện Đảng: Toàn tập, tập 47, Sđd, 2006, tr.374, 376.
[13], [14] Văn kiện Đảng: Toàn tập, tập 60, Sđd, 2016, tr.31, 30-31.
[15] Văn kiện Đảng: Toàn tập, tập 36, Sđd, 2004, tr.60-61.
[17], [18] Văn kiện Đảng: Toàn tập, tập 51, Sđd, 2007, tr.136-137, 311.
[19], [20], [23] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.103, 71, 70.
[21], [25] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.35-36, 114.
[22] Văn kiện Đảng: Toàn tập, tập 50, Sđd, 2007, tr.217.
[24] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.25.
Đại tá, PGS. TS Nguyễn Văn Quang, Viện Khoa học xã hội và Nhân văn quân sự