Sơ Đồ Khu 2 Đại Học Trà Vinh

Sơ Đồ Khu 2 Đại Học Trà Vinh

Lịch thi đánh giá năng lực ngoại ngữ (dự kiến) tại Trường Đại học Trà Vinh trong năm 2020

Lịch thi đánh giá năng lực ngoại ngữ (dự kiến) tại Trường Đại học Trà Vinh trong năm 2020

Bộ phận Tuyển sinh - Phòng Khảo thí

Bộ phận tiếp nhận và giải quyết các thắc mắc liên quan đến công tác tuyển sinh

�iện thoại: (0294) 3.855.944

Email: [email protected]

Về việc ban hành Quy định về trình tự, thủ tục và mức hỗ trợ chi phí khám, chữa bệnh cho người nghèo trên địa bàn tỉnh Trà Vinh

_________________________________

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003;

Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ngày 03/12/2004;

Căn cứ Luật Ngân sách nhà nước ngày 16/12/2002;

Căn cứ Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc khám, chữa bệnh cho người nghèo;

Căn cứ Quyết định số 14/2012/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc khám, chữa bệnh cho người nghèo;

Căn cứ Thông tư liên tịch số 33/2013/TTLT-BYT-BTC ngày 18/10/2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế - Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn tổ chức thực hiện Quyết định số 14/2012/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc khám, chữa bệnh cho người nghèo;

Theo đề nghị của Thường trực Ban Quản lý Quỹ khám, chữa bệnh cho người nghèo tỉnh Trà Vinh,

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Quy định về trình tự, thủ tục và mức hỗ trợ chi phí khám, chữa bệnh cho người nghèo trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.

Điều 2. Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh, Thường trực Ban Quản lý Quỹ khám, chữa bệnh cho người nghèo tỉnh Trà Vinh; Giám đốc Sở Tài chính, Giám đốc Sở Y tế, Giám đốc Kho bạc Nhà nước Trà Vinh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố; Giám đốc các bệnh viện công lập trên địa bàn tỉnh và Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan căn cứ Quyết định thi hành.

Quyết định này có hiệu lực sau 10 (mười) ngày kể từ ngày ký./.

Trình tự, thủ tục và mức hỗ trợ chi phí khám, chữa bệnh cho người nghèo trên địa bàn tỉnh Trà Vinh

(Ban hành kèm theo Quyết định số: 33/2014/QĐ-UBND Ngày 20/11/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh)

_______________________________________

Quy định này quy định về trình tự, thủ tục và mức hỗ trợ chi phí khám, chữa bệnh từ Quỹ khám, chữa bệnh cho người nghèo do Uỷ ban nhân dân tỉnh thành lập.

1. Đối tượng được hưởng chế độ hỗ trợ khám, chữa bệnh cho người nghèo theo Quy định này là người có hộ khẩu thường trú trên địa bàn tỉnh Trà Vinh gồm:

a) Người thuộc hộ nghèo theo quy định hiện hành của Thủ tướng Chính phủ về chuẩn hộ nghèo.

b) Đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống tại các xã, phường, thị trấn thuộc vùng khó khăn theo quy định tại Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ.

c) Người thuộc diện hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định của pháp luật và người đang được nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước .

d) Người mắc bệnh ung thư, chạy thận nhân tạo và mổ tim gặp khó khăn do chi phí cao mà không đủ khả năng chi trả viện phí.

2. Cơ sở y tế của nhà nước thực hiện hoạt động hỗ trợ theo Quy định này là các Bệnh viện từ tuyến huyện trở lên, bao gồm: Bệnh viện đa khoa huyện, Bệnh viện đa khoa khu vực, Bệnh viện đa khoa tỉnh, Bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh, Bệnh viện ngoài tỉnh và Bệnh viện tuyến Trung ương (sau đây gọi chung là Bệnh viện công lập).

1. Quỹ Khám, chữa bệnh cho người nghèo (sau đây gọi tắt là Quỹ) hỗ trợ cho các đối tượng tại khoản 1, Điều 2 Quy định này khi điều trị nội trú tại các Bệnh viện công lập.

2. Trong thời gian điều trị, người bệnh thuộc đối tượng thụ hưởng của nhiều chế độ, chính sách hỗ trợ từ nhiều nguồn khác nhau nhưng có cùng nội dung hỗ trợ thì chỉ được hưởng một mức hỗ trợ cao nhất.

3. Quỹ không hỗ trợ người bệnh trong các trường hợp sau:

b) Tự lựa chọn cơ sở khám, chữa bệnh (trái tuyến, vượt tuyến).

d) Người bệnh tự tử, tự gây thương tích; điều trị tổn thương về thể chất, tinh thần do hành vi vi phạm pháp luật của người đó gây ra.

đ) Không nộp đầy đủ giấy tờ theo quy định.

Điều 4. Quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo tỉnh Trà Vinh được hình thành từ các nguồn sau:

- Ngân sách nhà nước hỗ trợ quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo.

- Đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật.

Điều 5. Quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo tỉnh Trà Vinh có Ban quản lý Quỹ; Quỹ được đặt tại Sở Y tế và có con dấu riêng theo quy định.

- Hàng năm Quỹ cấp kinh phí cho các bệnh viện công lập trong tỉnh để thực hiện chi phí hỗ trợ cho người nghèo theo quy định này.

Là đối tượng quy định tại điểm a, b khoản 1, Điều 2 của Quy định này.

Mức hỗ trợ tiền ăn cho đối tượng này bằng 3% mức lương tối thiểu chung/người bệnh/ngày và được làm tròn số đến hàng ngàn đồng (Ví dụ: lương tối thiểu 1.150.000 đồng x 3% = 34.500 đồng, được làm tròn là 35.000 đồng).

Hỗ trợ tiền đi lại từ nhà đến bệnh viện, từ bệnh viện về nhà và chuyển bệnh viện cho các đối tượng nêu tại điểm a, b khoản 1 Điều 2 của Quy định này khi điều trị nội trú tại các cơ sở y tế của Nhà nước từ tuyến huyện trở lên, các trường hợp cấp cứu, tử vong hoặc bệnh quá nặng và người nhà có nguyện vọng đưa về nhà nhưng không được bảo hiểm y tế hỗ trợ.

a) Trường hợp sử dụng phương tiện vận chuyển của bệnh viện công lập: Thanh toán chi phí vận chuyển cả chiều đi và về cho bệnh viện chuyển người bệnh theo mức bằng 0,2 lít xăng/km tính theo khoảng cách vận chuyển, giá xăng tại thời điểm sử dụng và các chi phí cầu, phà, phí đường bộ khác (nếu có). Nếu có nhiều hơn một người bệnh cùng được vận chuyển trên một phương tiện thì mức thanh toán chỉ được tính như đối với vận chuyển một người bệnh.

b) Trường hợp không sử dụng phương tiện vận chuyển của bệnh viện công lập:

- Trường hợp vận chuyển bệnh nhân từ nhà (hoặc trạm y tế) đến bệnh viện huyện (hoặc đến bệnh viện khu vực, bệnh viện tỉnh nhưng đúng tuyến) có khoảng cách dưới 4 km được hỗ trợ 20.000 đồng (hai mươi ngàn đồng), khoảng cách trên từ 4 km trở lên được hỗ trợ 30.000 đồng (ba mươi ngàn đồng).

- Trường hợp chuyển viện (bệnh viện huyện lên bệnh viện tỉnh hoặc bệnh viện tỉnh chuyển viện lên tuyến trên): Thanh toán chi phí vận chuyển một chiều đi cho người bệnh theo mức bằng 0,2 lít xăng/km tính theo khoảng cách vận chuyển và giá xăng tại thời điểm sử dụng. Bệnh viện chỉ định chuyển bệnh nhân thanh toán chi phí vận chuyển cho người bệnh, sau đó thanh toán với Quỹ khám, chữa bệnh cho người nghèo.

Điều 8. Hỗ trợ một phần chi phí khám, chữa bệnh

a) Đối tượng quy định tại điểm a, b và c khoản 1, Điều 2 của Quy định này nếu phải đồng chi trả theo quy định của Luật bảo hiểm y tế từ 100.000 đồng trở lên thì được Quỹ hỗ trợ 50% số tiền người bệnh chi trả.

b) Đối tượng quy định tại điểm d khoản 1, Điều 2 của Quy định này nếu chi phí khám bệnh, chữa bệnh từ 1.000.000 đồng/đợt trở lên được Quỹ hỗ trợ 50% số tiền người bệnh chi trả (nhưng tối đa không quá 40.000.000 đồng/đợt đối với trường hợp mổ tim; không quá 10.000.000 đồng/đợt và không quá 4 đợt/người/năm đối với trường hợp bệnh ung thư); trường hợp có BHYT thì được hỗ trợ như điểm a Điều này.

Điều 9. Trình tự, thủ tục hỗ trợ

a) Hồ sơ của người bệnh đề nghị hỗ trợ chi phí khám bệnh, chữa bệnh

- Điều trị tại bệnh viện trong tỉnh: Bản sao Bảo hiểm y tế còn hạn sử dụng.

- Điều trị tại bệnh viện ngoài tỉnh: Bản sao giấy chuyển viện, bản sao giấy xuất viện, bảng sao Bảo hiểm y tế còn hạn sử dụng và Biên lai thu viện phí (nếu có).

- Trường hợp người bệnh thuộc đối tượng điểm d khoản 1 Điều 2 của Quy định này nếu không có thẻ bảo hiểm y tế phải có đơn đề nghị hỗ trợ theo mẫu (đính kèm).

b) Địa điểm nộp hồ sơ của người bệnh đề nghị hỗ trợ chi phí khám bệnh, chữa bệnh.

- Đối với người bệnh điều trị tại bệnh viện công lập từ tuyến huyện trở lên trên địa bàn tỉnh: Nộp hồ sơ tại bệnh viện nơi người bệnh điều trị.

- Đối với người bệnh điều trị tại bệnh viện ngoài tỉnh: Nộp hồ sơ tại bệnh viện nơi người bệnh được chỉ định chuyển viện.

2. Đối với các bệnh viện công lập thực hiện thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh cho người nghèo theo Quy định này.

- Thực hiện tiếp nhận hồ sơ và hỗ trợ chi phí khám bệnh, chữa bệnh; tiền ăn; tiền vận chuyển cho người bệnh.

- Tổng hợp hồ sơ, chứng từ thanh toán với người bệnh; chi phí hỗ trợ của bệnh viện hàng tháng, hàng quý (theo mẫu thống nhất của Sở Y tế) quyết toán với thường trực Ban Quản lý Quỹ Khám, chữa bệnh cho người nghèo (tại Sở Y tế)

Điều 10. Trách nhiệm của các Sở, Ban, ngành tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện, thành phố và các đơn vị có liên quan

a) Hàng năm, lập dự toán kinh phí hỗ trợ chi khám bệnh, chữa bệnh theo Quy định này và kinh phí hoạt động của Ban Quản lý Quỹ Khám, chữa bệnh cho người nghèo gửi Sở Tài chính thẩm định, báo cáo UBND tỉnh xem xét, trình Hội đồng nhân dân tỉnh theo quy định.

Trên cơ cơ dự toán được giao Ban Quản lý Quỹ chuyển kinh phí cho các bệnh viện thực hiện thanh toán cho người bệnh; đồng thời, thực hiện quyết toán kinh phí theo quy định hiện hành.

b) Tiếp nhận, quản lý, sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp; các nguồn tài trợ, hỗ trợ của tổ chức cá nhân trong nước và nước ngoài cho Quỹ theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.

c) Kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện hoạt động của Quỹ tại cơ sở; tổng hợp tình hình hoạt động của Quỹ và báo cáo Chủ tịch UBND tỉnh theo định kỳ 6 tháng và năm.

d) Định kỳ lập báo cáo tài chính của Quỹ theo quy định của chế độ kế toán hành chính sự nghiệp.

e) Chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn các Bệnh viện trong tỉnh tổ chức thực hiện công tác hỗ trợ đúng đối tượng, định mức theo Quy định này.

f) Chủ trì phối hợp với Sở Tài chính hướng dẫn việc lập dự toán, cấp phát kinh phí, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí cho các bệnh viện công lập trong tỉnh.

2. Các Bệnh viện công lập trên địa bàn toàn tỉnh.

a) Hàng năm, lập dự toán kinh phí hỗ trợ khám, chữa bệnh cho người nghèo theo quy định này trình Sở Y tế để tổng hợp, trình cơ quan có thẩm quyền.

b) Tiếp nhận, quản lý, sử dụng kinh phí theo hướng dẫn của quy định này và thực hiện đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Không sử dụng kinh phí hỗ trợ theo Quy định này vào mục đích khác.

c) Bệnh viện chịu trách nhiệm thanh quyết toán kinh phí hỗ trợ khám, chữa bệnh cho người nghèo với Sở Y tế đúng theo quy định .

a) Thẩm định dự toán kinh phí hỗ trợ chi khám bệnh, chữa bệnh theo Quy định này và kinh phí hoạt động của Ban Quản lý Quỹ Khám, chữa bệnh cho người nghèo báo cáo UBND tỉnh xem xét, trình Hội đồng nhân dân tỉnh theo quy định.

b) Phối hợp Sở Y tế hướng dẫn sử dụng và thanh quyết toán kinh phí theo quy định

4. Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố

a) Chỉ đạo UBND cấp xã; phường, thị trấn các phòng, ban chức năng chuyên môn tổ chức tuyên truyền cho đối tượng thụ hưởng tại Quy định này kịp thời, chính xác và đúng đối tượng.

b) Chỉ đạo UBND cấp xã; phường, thị trấn chịu trách nhiệm xác nhận cho các đối tượng bệnh nhân mắc các bệnh ung thư, chạy thận nhân tạo và mổ tim gặp khó khăn không đủ khả năng chi trả viện phí, có hộ khẩu tại địa phương, để các cơ sở y tế trong tỉnh hỗ trợ một phần chi phí khám, chữa bệnh theo quyết định này.

c) Chỉ đạo cơ quan thông tin đại chúng tuyên truyền phổ biến sâu rộng chính sách hỗ trợ khám chữa bệnh cho người nghèo theo Quyết định số 14/2012/QĐ-TTg ngày 01 tháng 3 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15 tháng 10 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc khám chữa bệnh cho người nghèo và Quy định này tới người dân tại địa phương.

d) Thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động hỗ trợ chi phí khám chữa bệnh cho người nghèo tại địa phương.

Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc, các Bệnh viện công lập, các Sở, Ban, ngành và UBND các huyện, thành phố phản ánh về Sở Y tế (cơ quan thường trực Ban Quản lý Quỹ) để tổng hợp báo cáo UBND tỉnh xem xét, điều chỉnh bổ sung cho phù hợp./.

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ________________________________

ĐƠN XIN HỖ TRỢ CHI PHÍ KHÁM, CHỮA BỆNH

Tôi tên: ………………………………, sinh năm ………Dân tộc:……..

Địa chỉ: Ấp.................…....Xã…...................huyện..…………....Tỉnh Trà Vinh .

Số CMTND(nếu có) ........................... do..................  cấp  ngày .../......./……..

Điện thoại liên lạc: ........................

Số Bệnh án:........................

Tôi thuộc đối tượng quy định tại khoản…. Điều 1 Quy định hỗ trợ một phần chi phí khám, chữa bệnh cho người nghèo tỉnh Trà Vinh ban hành kèm theo Quyết định số:        /QĐ-UBND ngày ….. tháng..... năm 201.. của UBND tỉnh Trà Vinh.

Bị bệnh: .............................................................................................

Vào viện từ ngày       /        /    đến ngày     /            /

Đã điều trị tại: ..............................................................................

Do điều kiện gia đình không có đủ tiền để thanh toán chi phí viện phí.Tôi viết đơn này kính, mong UBND xã, phường, thị trấn xác nhận cho tôi gặp khó khăn và xin bệnh viện hỗ trợ cho tôi một phần chi phí khám, chữa bệnh để bản thân tôi và gia đình bới phần khó khăn trong cuộc sống.

(Ký tên, ghi rõ họ, tên và đóng dấu)

………….., ngày … tháng … năm Người làm đơn

(Ký tên, hoặc điểm chỉ ghi rõ họ, tên)

Sơ lược lịch sử hình thành tỉnh Trà Vinh

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TỈNH TRÀ VINH

Trải qua những thăng trầm vì bị chi phối bởi những quy luật kiến tạo địa chất cùng những lần "biển tiến, biển lùi", vùng đất có tên gọi "Trà Vang" - tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này đã được hình thành từ lâu đời. Vào thời kỳ đó, Trà Vinh vẫn còn là một vùng đất rất hoang vu, các loại cây rừng trùm lên những giồng đất, những đầm lầy và sông rạch chằng chịt, dân cư thưa thớt.

Vào thế kỷ XVII, các quốc gia phong kiến như Việt Nam, Trung Quốc, Campuchia….trong bối cảnh chung của thế giới đã không tránh khỏi sự khủng hoảng và suy yếu. Ở Việt Nam, cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn (1627-1673) đã chia cắt đất nước thành hai xứ: Đàng trong và Đàng ngoài (lấy sông Gianh làm ranh giới). Điều này đã làm cho hàng vạn nông dân lâm vào thảm họa bị tiêu diệt, phải đi tìm cõi sống ở Phương Nam.

Trước thực tế khách quan đó, vào cuối thế kỷ thứ XVII, các Chúa Nguyễn đã chủ động tổ chức di dân người Việt vào vùng đất Nam bộ, thực thi những chính sách chiêu mộ lưu dân và đưa quân đội vào Nam khai phá đất đai. Cùng với người Việt và người Khmer, người Hoa cũng được Chúa Nguyễn tạo điều kiện để cùng nhau khai phá và định cư trên vùng đất phía Nam này, trong đó có vùng đất Trà Vinh.

Như vậy, vùng đất Trà Vinh, con đẻ của Biển Đông và sông Cửu Long, một vùng đất chứa đựng một hệ sinh thái đa dạng cùng với nhiều tiềm năng kinh tế khác nhau, vào thế kỷ thứ XVII đã có chủ nhân là một cộng đồng dân cư đa dân tộc (Việt, Khmer, Hoa…). Sự hình thành một cộng đồng dân cư đa dân tộc trên vùng đất này là một trong những sự kiện lịch sử có ý nghĩa cực kỳ trọng đại đối với sự hình thành và phát triển của tỉnh Trà Vinh sau này.

Sự hình thành và phát triển của tỉnh Trà Vinh có thể được chia thành 2 giai đoạn sau:

Giai đoạn 1: từ năm 1732 đến năm 1900.

Vùng đất và tên gọi "Trà Vang", tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này đã có từ trước khi Chúa Nguyễn lập Châu Định Viễn, dựng Dinh Long Hồ vào năm 1732. Như vậy, lúc bấy giờ đất Trà Vinh thuộc Châu Định Viễn.

Năm 1802, sau khi lên ngôi, Vua Gia Long bắt tay ngay vào việc sắp xếp và phân định lại ranh giới các đơn vị hành chính trên toàn quốc. Từ đó, Gia Định phủ được đổi thành Gia Định Trấn. Lãnh thổ Gia Định Trấn được phân chia thành 4 dinh và 1 trấn phụ, vùng đất Trà Vinh lúc này thuộc Dinh Vĩnh Trấn.

Năm 1803, Vua Gia Long cho lập địa đồ các dinh thuộc Gia Định Trấn và đổi Dinh Vĩnh Trấn thành Dinh Hoằng Trấn. Vùng đất Trà Vinh lúc này thuộc Dinh Hoằng Trấn.

Năm 1808, Gia Long đổi Gia Định Trấn thành Gia Định Thành, Dinh  Vĩnh Trấn được đổi thành Trấn Vĩnh Thanh. Lúc bấy giờ, vùng đất Trà Vinh thuộc Trấn Vĩnh Thanh.

Năm 1825, vùng đất Trà Vinh được Vua Minh Mạng lập thành Phủ Lạc Hóa trực thuộc Gia Định Thành gồm hai huyện Trà Vinh và Tuân Mỹ.

Đến năm 1832, Trấn Vĩnh Thanh được đổi tên là Trấn Vĩnh Long. Sau đó, Vua Minh Mạng cho đổi các trấn thành tỉnh. Vùng đất Nam Bộ được chia thành sáu tỉnh, gọi là "Nam Kỳ lục tỉnh" gồm: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Lúc này, Trà Vinh là một huyện thuộc Phủ Lạc Hóa tỉnh Vĩnh Long.

Năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định phân chia toàn bộ Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn. Trên cơ sở phân chia đó, khu vực hành chính lớn Vĩnh Long gồm 4 tiểu khu: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Sa Đéc. Tiểu khu Trà Vinh là tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này.

Ngày 20/12/1899, Toàn quyền Đông Dương Doumer ký nghị định đổi tên gọi tiểu khu thành tỉnh. Từ đây Nam Kỳ lục tỉnh cũ được phân chia lại thành 10 tỉnh mới, tỉnh Vĩnh Long cũ được tách ra thành 3 tỉnh mới: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh. Nghị định này được chính thức thi hành từ ngày 1/1/1900. từ đây, tên tỉnh Trà Vinh được sử dụng chính thức trên các văn bản tiếng Pháp là Province de Trà Vinh.

Giai đoạn 2: từ năm 1900 đến năm 1992.

Từ 1/1/1900, tên gọi tỉnh Trà Vinh được sử dụng chính thức cho đến tháng 5/1951, thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Cục , Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ đã ban hành Nghị định số 174/NB-51 ngày 27/6/1951 về việc sáp nhập 20 tỉnh Nam Bộ thành 11 tỉnh. Theo đó, tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh được sáp nhập lại thành 1 tỉnh Vĩnh Trà.

Từ năm 1954 đến năm 1960, Mỹ - Diệm đã tiến hành phân chia lại địa giới hành chính các tỉnh miền Nam. Trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, hai huyện Cầu Kè và Tiểu Cần được tách ra, ghép với hai huyện Trà Ôn và Tam Bình của Vĩnh Long để thành lập một tỉnh mới là tỉnh Tam Cần (theo Sắc lệnh số 16-NV ngày 9/2/1956) và tách một phần đất của huyện Cầu Ngang để thành lập một quận mới là quận Long Toàn (theo Sắc lệnh số 143-NV ngày 22/10/1956). Đầu năm 1957, Ngô Đình Diệm đổi tên tỉnh Trà Vinh thành tỉnh Vĩnh Bình. Tỉnh Tam Cần thành lập được gần một năm thì giải thể, ba quận của tỉnh Tam Cần và quận Vũng Liêm (của tỉnh Vĩnh Long) được sáp nhập vào tỉnh Vĩnh Bình (theo Nghị định số 3-ND/HC/ND ngày 3/1/1957).

Thực hiện Nghị quyết số 245-NQ/TW ngày 20/9/1975 của Bộ Chính trị về việc bỏ khu hợp tỉnh và Nghị quyết số 19/NQ ngày 20/12/1975 của Bộ Chính trị về việc điều chỉnh hợp nhất một số tỉnh ở miền Nam Việt Nam; tháng 2/1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành nghị định về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam. Theo nghị định này ở miền Nam có 21 đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh được sáp nhập thành tỉnh Cửu Long.

Kỳ họp thứ 10, Quốc  hội khóa VIII đã ra quyết định tách tỉnh Cửu Long thành 2 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh. Ngày 5/5/1992 tỉnh Trà Vinh chính thức đi vào hoạt động và phát triển cho đến ngày nay.

Hiện nay, tỉnh Trà Vinh là một trong 13 tỉnh thành ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, nằm về phía hạ lưu giữa sông Tiền và sông Hậu, giáp với biển Đông. Nhìn một cách tổng thể, Trà Vinh có dạng như một hình tứ giác với diện tích đất tự nhiên là 2.288.09 km2 với dân số là 1.012.648 người (số liệu của Cục Thống kê tỉnh Trà Vinh năm 2011).

Địa giới hành chính của tỉnh Trà Vinh được phân chia thành 8 đơn vị bao gồm: thành phố Trà Vinh và 7 huyện (Càng Long, Cầu Kè, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang, Duyên Hải, Châu Thành). Tỉnh Trà Vinh là địa bàn cộng cư của 3 dân tộc chính là Kinh, Khmer, Hoa và một số ít các dân tộc khác. Trong đó, người Kinh có tỷ lệ cao nhất trong cơ cấu dân số của tỉnh với 684.119 người chiếm 67,5% dân số của tỉnh. Ngoài ra, tỉnh Trà Vinh còn là nơi có đồng bào Khmer sinh sống đông thứ 2 ở Đồng bằng sông Cửu Long cũng như cả nước sau tỉnh Sóc Trăng. Đồng bào Khmer ở Trà Vinh có 320.292 người (chiếm 31,63%). Bên cạnh đó còn có người Hoa và một số đồng bào khác như Chăm, Dao…có tổng số là 8.237 người chiếm 0,81% dân số của tỉnh.

Chúng ta biết rằng từ xa xưa, trên đất Trà Vinh đã hình thành nên truyền thống đoàn kết gắn bó keo sơn. Đó là thành quả của quá trình cộng cư ngày một đông đảo, phát triển sự gần gũi và đoàn kết của quan hệ dân tộc Việt, Khmer, Hoa trong việc khai hoang mở đất. Nhưng đồng thời với việc mở mang ruộng đất đó là sự hình thành và lớn dần của mâu thuẫn giai cấp, cùng với những biến động trong xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn vào những năm 40 - 50 của thế kỷ XIX. Đó là thời kỳ tình hình xã hội rất phức tạp và nhiều cuộc nổi dậy liên tiếp của nông dân đều bị quân triều đình dập tắt, thúc đẩy những mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt.

Tuy vậy, từ cuối thập kỷ thứ năm của thế kỷ XIX, trước tai họa ngoại xâm và nguy cơ mất nước, đồng bào các dân tộc Trà Vinh đã tạm gác những mâu thuẫn với chính quyền phong kiến để tập trung chống Pháp. Từ đây, lịch sử Trà Vinh bước sang trang mới, mở đầu thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.

Ngay khi thực dân Pháp đặt chân xâm lược lên vùng đất Trà Vinh này, thì ngay lập tức chúng đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của nhân dân Trà Vinh dưới ngọn cờ của Trương Định, Thủ khoa Huân, Võ Duy Dương, Đề Triệu,… Mặc dù các cuộc khởi nghĩa ấy đều thất bại và tổn thất nhiều về người và của, song cũng như cả nước, nhiều người con của Trà Vinh bất khuất vẫn không sợ hy sinh, không nản chí, mà nhẫn nại tìm tòi phương cách hoạt động khác để chống xâm lăng. Các hoạt động yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược và bọn tay sai ở Trà Vinh trong 3 thập niên đầu thế kỷ XX diễn ra theo hai hướng:

+ Một hướng là các phong trào mang tính chất nông dân và tiểu tư sản, tiêu biểu như cuộc ám sát hai tên thực dân Pháp do thầy Thông Chánh thực hiện; phong trào Duy Tân; phong trào Đông Du, phong trào Đông kinh nghĩa thục, phong trào Thiên địa hội…

+ Hướng còn lại là các phong trào mang tính chất cộng sản, ảnh hưởng vào Trà Vinh từ trước năm 1920 với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga. Trong thời gian này, tại Bình Đông (thuộc quận Tám thành phố Hồ Chí Minh ngày nay), Tôn Đức Thắng cùng 17 đồng chí, trong đó có một người con của Trà Vinh là Dương Quang Đông đã thành lập ra tổ chức Công Hội Đỏ.

Với tình yêu quê hương đất nước và tài năng sáng tạo cách mạng của tuổi trẻ, Dương Quang Đông về Trà Vinh xúc tiến việc thành lập tổ chức "Thanh niên đỏ". Tổ chức này lần lượt ra đời tại Cầu Ngang, tỉnh lỵ Trà Vinh và Càng Long, đây cũng chính là những chiếc nôi hình thành các Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của tỉnh Trà Vinh vào năm 1930. Mùa xuân năm 1930, Tỉnh ủy Trà Vinh ra đời, và đến năm 1945, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy và các Huyện ủy, nhân dân Trà Vinh đã vùng lên tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi vào ngày 25/8/1945.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là mốc lịch sử đánh dấu sự mở đầu vĩ đại cho chặng đường mới trong tiến trình phát triển của tỉnh Trà Vinh, nhưng cuộc hành trình lịch sử này vừa mới bắt đầu thì thực dân Pháp và các thế lực phản động lại điên cuồng chống phá. Chiến tranh bùng nổ rồi lan dần trên khắp xứ sở Trà Vinh vào cuối mùa thu năm 1945, tuy nhiên kẻ thù đã không thể đè bẹp được ý chí bất khuất của những người cộng sản cùng sức mạnh yêu nước của đồng bào các dân tộc ở Trà Vinh hàng trăm năm sống gần gũi bên nhau trên mảnh đất này.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh và chính quyền cách mạng, nhân dân Trà Vinh đã làm nên những chiến công vang dội như trận La Bang (16/12/1948); chiến dịch Cầu Kè (1949); chiến dịch Trà Vinh (1950)…góp phần cùng cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, buộc Pháp phải ký Hiệp định Geneve, rút quân về nước.

Hoàn thành xong nhiệm vụ đánh Pháp, quân dân Trà Vinh lại tiếp tục cùng cả nước thực hiện nhiệm vụ đuổi Mỹ ra khỏi bờ cõi của Tổ quốc. Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng bào các dân tộc ở Trà Vinh đã vượt qua muôn vàn thử thách, một lòng theo Đảng, góp phần cùng nhân dân miền Nam đánh bại hoàn toàn các chiến lược chiến tranh do Mỹ đề ra (chiến tranh đơn phương; chiến tranh đặc biệt; chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh), làm nên những chiến công vang dội như Đồng Khởi (1960); Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 (với chiến thắng đó, quân dân Trà Vinh được Đảng và Nhà nước khen tặng Huân chương Thành đồng hạng nhất và lá cờ vẻ vang với tám chữ vàng: "toàn dân nổi dậy, đoàn kết lập công".)…

Sau khi Hiệp định Pari được ký kết (27/1/1973), Mỹ rút quân về nước, nhân dân Trà Vinh cùng nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục đánh đổ chính quyền Ngụy giành độc lập dân tộc thống nhất nước nhà. Với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngày 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam đã hoàn toàn giải phóng. Ngày 30 tháng 4 đã đi vào lòng mỗi người dân Việt Nam nói chung và nhân dân Trà Vinh nói riêng như một mốc son chói lọi về một ngày toàn thắng thống nhất Tổ quốc, cùng cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Sau ngày hòa bình thống nhất, Trà Vinh cùng cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng. Thi hành Quyết định của Quốc hội khóa VIII, tháng 5/1992 tỉnh Trà Vinh được tái lập cùng với 12 tỉnh thành trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tiến lên xây dựng và phát triển kinh tế. Cộng đồng các dân tộc ở Trà Vinh luôn phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, truyền thống anh hùng trong kháng chiến ngày đêm ra sức lao động xây dựng cuộc sống mới, xây dựng quê hương đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Trà Vinh có 18.374 liệt sĩ; 987 bà mẹ Việt Nam anh hùng cùng 61 đơn vị, địa phương được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.

Là một tỉnh nghèo với kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, có xuất phát điểm thấp nhưng Đảng bộ và quân dân Trà Vinh đã không ngừng nỗ lực đưa tỉnh nhà phát triển bền vững trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng.... Ngày xưa, trong chiến đấu nhân dân Trà Vinh đã không tiếc máu xương của mình, anh dũng ngã xuống để đổi lấy hòa bình cho đất nước với những tấm gương tiêu biểu như Nguyễn Thị Út (Út Tịch), Kiên Thị Nhẫn, Hồ Thị Nhâm, đồng chí Phạm Thái Bường, Hồ Đức Thắng… Còn ngày hôm nay, trong lao động sản xuất, Trà Vinh lại có những con người cần cù, sáng tạo, năng động, hăng say và hết mình trong công việc. Vượt qua thử thách đói nghèo, họ đã cống hiến sức mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ thành quả mà ông cha ta đã giành được. Tiêu biểu như cặp vợ chồng thương binh "hai nửa của một danh hiệu anh hùng" Lê Văn Lục và Cam Thị Cúc; hay "vua măng cụt" Lưu Văn Nhiều; nhà "sáng chế chân đất" Trần Văn Dũng; "vua lúa giống" Dương Văn Châu….

Trong chiến tranh, nhân dân Trà Vinh cùng nhân dân cả nước đã chiến thắng những kẻ thù xâm lược hùng mạnh. Trong hòa bình, nhân dân Trà Vinh lại một lần nữa sẽ chiến thắng, đó là chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu. Đồng bào các dân tộc ở Trà Vinh đã phát huy truyền thống đoàn kết, cần cù, sáng tạo để vùng đất mà họ khai phá từ những thế kỷ trước dần 'thay da đổi thịt", vững vàng cùng cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, con đường mà Đảng ta đã sáng suốt lựa chọn.

Trường Đại học Trà Vinh, đại học xanh trong đô thị xanh Trường Đại học Trà Vinh, đại học xanh trong đô thị xanh

GD&TĐ – Ngày 1/4 là thí sinh bắt đầu nộp hồ sơ xét tuyển ĐH, CĐ, không ít bạn vẫn còn băn khoăn nên học trường nào, ngành nào. Nhiều chuyên gia tuyển sinh đưa ra lời khuyên, hãy tùy điều kiện hoàn cảnh gia đình, lựa chọn một trường đại học uy tín là cần thiết, nhưng cũng tính đến các yếu tố khác sao cho thuận tiện nhất để ăn học và sinh hoạt. Các đại học địa phương với chất lượng đào tạo tốt như Trường Đại học Trà Vinh là lựa chọn hợp lý lúc này. Đại học Trà Vinh là trường đại học công lập, phạm vi tuyển sinh trên toàn quốc. Trường được giao đào tạo các trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ và tiến sĩ, là trường đầu tiên trực thuộc tỉnh được giao thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động, với mức thu học phí của trường công lập Trường được Thủ tướng Chính phủ giao thí điểm tự chủ với mục tiêu phát triển thành trường đại học định hướng ứng dụng theo các chuẩn mực khu vực và quốc tế.

Một góc Bệnh viện TVU và Khoa Văn hóa, ngôn ngữ Khmer Nam bộ

Thầy Võ Hoàng Khải – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Trà Vinh, cho biết: Đến nay Đại học Trà Vinh là trường duy nhất tại Việt Nam đào tạo các chuyên ngành thuộc lĩnh vực ngôn ngữ, văn hóa, nghệ thuật Khmer Nam Bộ và là đơn vị chủ trì biên soạn thành công Bộ từ điển song ngữ Việt – Khmer, Khmer – Việt, thực hiện nhiệm vụ đào tạo hệ dự bị đại học cho các thí sinh thuộc đối tượng học sinh là người dân tộc và chương trình dự bị Tiếng Việt cho sinh viên quốc tế.

Mở cơ hội học tập cho cộng đồng, Đại học Trà Vinh cũng có chương trình đào tạo chuyển tiếp từ cao đẳng cộng đồng lên đại học. Chương trình này được thực hiện theo hai giai đoạn. Giai đoạn đầu: sinh viên học tập trung toàn bộ thời gian tại trường cao đẳng cộng đồng. Giai đoạn hai: sinh viên đạt điều kiện để được học chuyển tiếp sẽ tiếp tục các học phần còn lại của chương trình đào tạo tại trường.

Các bạn sinh viên người Khmer rất siêng năng trong học tập

Sinh viên được cung cấp kinh nghiệm “nghề nghiệp”, mở rộng việc học ra khỏi phạm vi lớp học; được hưởng lương khi tham gia học kỳ CO-OP (liên kết nhà trường với doanh nghiệp); học được cách tìm việc làm, các kỹ năng duy trì công việc: viết sơ yếu lý lịch, viết thư xin việc, phỏng vấn, chuẩn bị cho việc làm… kết nối giới thiệu việc làm cho 100% sinh viên sau khi tốt nghiệp và các việc làm thêm cho sinh viên đang theo học.

Các chương trình tập huấn, hoạt động ngoại khóa, nghiên cứu khoa học… dành cho sinh viên được đánh giá là rất hấp dẫn. Sinh viên được tham gia nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực, hoạt động ngoại khóa với chuyên gia quốc tế, tiếp cận công nghệ hiện đại tại các doanh nghiệp trong và ngoài nước… Đặc biệt, Trung tâm hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp, tạo điều kiện cho sinh viên tham gia phát triển “ý tưởng khởi nghiệp” từ những điều đơn giản nhất.

Thư viện và kết nối internet toàn khuôn viên trường phục vụ tốt cho việc học tập và nghiên cứu của SV

Thư viện được nhà trường bố trí với không gian rộng rãi, sạch sẽ, thoáng mát, hệ thống máy lạnh và nguồn sách phong phú hơn 100.000 đầu sách. Bên cạnh đó, Nhà trường trang bị hệ thống máy tính với 150 máy kết nối Internet dành cho các bạn sinh viên sử dụng hoàn toàn miễn phí để hỗ trợ việc học tập, thư viện điện tử và số hóa các tài liệu học tập, sách, tạp chí … phục vụ sinh viên.

Bệnh viện Trường Đại học Trà Vinh điều trị nội, ngoại trú với qui mô 50 giường bệnh và đã được thông tuyến với các bệnh viện khác trong tỉnh và đặc biệt thẻ BHYT tuyến huyện ngoài tỉnh. Vì vậy thẻ BHYT dù có đăng ký khám ở bất kỳ cứ cơ sở nào khác trong tỉnh và tuyến huyện tỉnh khác thì khi đến khám và điều trị tại bệnh viện trường ĐH Trà Vinh đều sẽ được quỹ BH thanh toán đúng quy định.

Ký túc xá trường Đại học Trà Vinh được xây trong khuôn viên trường, xanh, sạch, đẹp, tiện nghi, an toàn cho sinh viên. Đây là điều kiện giúp sinh viên an tâm trong việc ăn, ở đi lại, đến lớp, tham gia học nhóm, đến thư viện, tham gia hoạt động thể dục thể thao, vui chơi giải trí của Nhà trường, giảm bớt lo lắng về khoản chi phí nhà ở, giảm bớt gánh nặng cho gia đình.

Thầy Võ Hoàng Khải cho biết thêm: Thực hiện chế độ chính sách và động viên sinh viên giỏi, trường miễn học phí hệ chính quy các ngành: Sư phạm ngữ văn, tiếng Khmer, GD mầm non, GD tiểu học, Biểu diễn nhạc cụ truyền thống. Sinh viên được học bổng từ nhà trường, từ các chương trình thực tập ngắn hạn ở nước ngoài, học bổng theo Hiệp định, từ các cá nhân, tổ chức trong nước, quốc tế và được hỗ trợ vay vốn học tập.

Sinh viên là nữ học các ngành Kỹ thuật xây dựng công trình giao thông, Công nghệ kỹ thuật công trình xây dựng, Công nghệ kỹ thuật cơ khí, Công nghệ kỹ thuật điện – điện tử, Công nghệ kỹ thuật điều khiển và tự động hóa, Kỹ thuật cơ khí động lực, Công nghệ kỹ thuật ô tô, Khoa học vật liệu được cấp học bổng hàng năm tương đương 50% học phí; Công nghệ kỹ thuật hóa học được cấp học bổng hàng năm tương đương 30% học phí.

Nguồn: https://giaoducthoidai.vn/giao-duc/vi-sao-thi-sinh-khu-vuc-dong-bang-song-cuu-long-theo-hoc-o-dai-hoc-tra-vinh-3991275-v.html